Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề về tranh chấp thương mại là một vấn đề không thể
tránh khỏi giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, hiện nay vấn đề này có rất
nhiều những cách giải quyết khác nhau như giải quyết thông qua con đường thương
lượng, giải quyết thông qua hòa giải, bằng Tòa án, bằng trọng tài thương mại…
Một trong những cách thức
rất hiệu quả hiện nay mà các bên có thể lựa chọn đó là giải quyết thông qua trọng
tài thương mại. Trên thế giới việc giải quyết các tranh chấp thương mại thông
qua hình thức trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng được các bên trong
tranh chấp thương mại ưu tiên lựa chọn khi có tranh chấp xảy ra, ở Việt Nam các
trung tâm trọng tài thương mại cũng đã xuất hiện từ khá lâu tuy nhiên hiện nay
việc lựa chọn giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức này ở Việt
Nam còn khá khiêm tốn, các bên thường lựa chọn hình thức giải quyết thông qua
con đường Tòa án. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của các bên trong
tranh chấp thương mại bởi việc giải quyết các tranh chấp thông qua Tòa án thường
phải diễn ra theo nguyên tắc công khai mà còn kéo theo đó là gánh nặng cho Tòa
án khi phải giải quyết quá nhiều các vụ việc phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại nói riêng và các tranh chấp trong đời sống xã hội nói chung
trong khi đó các trung tâm trọng tài ra đời từ lâu lại không có việc làm, nhiều
trung tâm dù đã được thành lập rất lâu nhưng thường rơi vào tình trạng nhàn rỗi.
Ở nước tà từ năm 2003
pháp lệnh về trọng tài thương mại đã ra đời tiếp sau đó là luật trọng tài
thương mại năm 2010 được hướng dẫn tại Nghị định số 63/2011/NĐ-CP Nghị định quy
định chi tiết và hướng dẫn một số điều của
Luật trọng tài thương mại năm 2010 và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP Nghị
quyết hướng dẫn luật trọng tài thương mại đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt
của nền pháp luật trọng tài Việt nam hướng đến những chuẩn mực chung của thế giới.
Những quy định này có những đóng góp to lớn cho việc đặt nền móng hình thành và
phát triển hệ thống trọng tài. Mặc dù vậy, hệ thống quy định hiện hành về trọng
tài thường mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa trở thành
phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp
liên quan.
Chính vì những lí do
trên đây mà em quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại” làm đề tài nghiên cứu của
mình.
Hiện nay vấn đề giải
quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài cũng đã có một số đề
tài, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề trọng tài thương mại
của các tác giả như: Đề tài “giải pháp nâng cao vai trò của trọng tài thương
mại trong các tranh chấp kinh tế” của Tiến sĩ Phan Văn Tính_Viện trưởng viện Rised; đề tài “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Tống Văn Huyền. Ngoài
ra còn một số bài viết liên quan như: bài viết “làm
thế nào để trọng tài thương mại Việt Nam làm chỗ dựa của doanh nghiệp” của
tác giả Đỗ Văn Đại; bài viết “Tại sao
các doanh nghiệp Việt Nam không "mặn mà" với việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng thương mại bằng trọng tài” của
Thạc sĩ, Luật sư Phan Thông Anh; “giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Thực
tiễn tại Việt Nam” của PGS,TS Trần Thị Lan Hương đăng trên tạp chí tài
chính số 4/2014;…
Đối tượng
nghiên cứu của đề tài mà em lựa chọn là hoạt động giải quyết tranh chấp thương
mại thông qua hình thức trọng tài tại Việt Nam, thực trạng hoạt động và hướng gải
quyết.
Phạm
vi nghiên cứu của đề tài là một số quy định của pháp luật về trọng tài thương mại
và thực trạng hoạt động của một số trung tâm trọng tài ở nước ta hiện nay.
Đề tài
tập chung nghiên cứu về ba nội dung chính
Thứ nhất,
nêu được các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
thương mại.
Thứ
hai, nêu lên được thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài
thương mại.
Thứ
ba, nêu lên được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
thương mại bằng trọng tài thương mại.
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng một phương pháp nghiên
cứu như: Phương pháp thống kế, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng
hợp…
Ngoài
phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của đề tài này được chia thành
ba chương chính:
Chương
1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng
trọng tài thương mại;
Chương
2: Thực trạng hoạt động của trọng tài thương mại ở nước ta hiện
nay;
Chương
3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong giải quyết tranh
chấp thương mại của trọng tài thương mại.
Khái niệm về tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề
cập đến trong Điều 238 Luật thương mại năm 1997 theo quy định tại điều luật này
thì “Tranh
chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Tuy nhiên khái niệm “hoạt động
thương mại” theo quy định của luật thương mại năm 1997 lại có nội hàm rất hẹp,
quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại năm 1997 đã loại bỏ
nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét về bản chất
hoàn toàn có thể coi là tranh chấp thương mại trong ngữ cảnh đương đại. Điều
này đã tạo ra những xung đột pháp luật giữa pháp luật quốc gia với luật quôc
tế.
Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng
06 năm 2005 thì không đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại, tuy nhiên dựa vào
Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ xung năm 2011 quy định về
các tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
gồm có:
+
Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức
có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán
hàng hóa; Cung ứng dịch vụ; Phân phối; Đại
diện, đại lý; Ký gửi;Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; Vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, vận
chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu,
trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm
dò, khai thác.
+
Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức
với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+
Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
+ Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp
luật có quy định.
Mặc
dù Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại”
mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của
các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được liệt kê tại Điều này thực chất là
các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại năm 2005.
Từ
nội dung được xem xét trên đây ta có thể rút ra định nghĩa về tranh chấp thương
mại như sau: “tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột)
về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động
thương mại”.
“Trọng tài kinh tế nhà nước:
Trọng
tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước thành lập ra, có chức
năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh
nghiệp nhà nước. Mô hình này được xác lập bằng Nghị định 20/TTg ngày
14/04/1960, trước khi được nâng cấp tại Pháp lệnh Trọng tài kinh tế nhà nước
năm 1990, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà
nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Như vậy, thực chất, trọng
tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý
kinh tế, vừa thực hiện chức năng xét xử của Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp
kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước, chưa thể hiện được vai trò trọng
tài. Trong khi đó toà án nhân dân thời kỳ này không có thẩm quyền giải quyết
các loại tranh chấp kinh tế mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân
sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình hoặc
tranh chấp liên quan đến hàng hoá có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng.
Mô hình trọng tài kinh tế tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa
án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993. Bắt
đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Trọng tài kinh tế phi nhà nước:
Đối với trọng tài phi
nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng
Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội
đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ
ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến
ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc
thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và
Hội đồng Trọng tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các trung
tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của
Chính phủ. Có 05 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này (02
Trung tâm tại thành phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành phố Hồ Chí Minh, 01
Trung tâm tại Cần Thơ và 01 Trung tâm tại Bắc Giang).” [1]
Hiện nay các trung tâm
trọng tại đã được thành lập ở ba thành phố trực thuộc trung ương bao gồm 2
trung tâm ở Hà Nội , 4 trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh và 1 trung tâm tại Cần
Thơ.
Khái niệm về trọng tài
thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong pháp lệnh về trọng tài thương mại
năm 2003 khi đó trọng tài thương mại được hiểu là “trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các
bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp lệnh này quy định”.
Đến ngày 17 tháng 6 năm
2010 Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại năm 2010. Luật trọng tài
thương mại 2010 cũng đã đưa ra khái niệm về trọng tài thương mại. Theo đó khái
niệm về trọng tài thương mại được quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010
và được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại như sau: “Trọng
tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo quy định của luật này”.
Cơ chế giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán
Cụ thể, thỏa thuận làm
tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết trọng tài thoát ly những yếu
tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài không bị giới
hạn bởi pháp luật; các đương sự có thể lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng
tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào trên thế giới để giải quyết tranh chấp.
Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất
tài phán và bắt buộc các bên phải tuân thủ.
Đương
sự được tự định đoạt
Phương thức trọng tài bảo
đảm quyền tự định đoạt của các đương sự cao hơn so với phương thức Tòa án, thể
hiện cơ bản là các đương sự trong tố tụng trọng tài có quyền lựa chọn trọng tài
viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp dụng đối với
tranh chấp…
Phán
quyết trọng tài là chung thẩm
Phán quyết trọng tài có
giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ
trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán quyết trọng tài). Đặc điểm này
giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm
các tranh chấp thương mại.
Có
sự hỗ trợ của Tòa án
Pháp luật các nước nhìn
chung, trong đó có Việt Nam nói riêng, đều quy định cơ chế hỗ trợ từ phía Tòa
án đối với tổ chức và hoạt động của trọng tài. Thông qua trình tự công nhận và
cho thi hành, Tòa án đảm bảo thực thi trên thực tế những quyết định của trọng
tài khi một hoặc các bên đương sự không tự nguyện thực hiện (tại Việt Nam, phán
quyết của trọng tài Việt Nam đương nhiên có hiệu lực thi hành). Ngoài ra, Tòa
án còn có thể hỗ trợ trọng tài ở các nội dung khác, như quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, bảo toàn chứng cứ, cấm hoặc buộc đương
sự thực hiện một số hành vi nhất định...
Trọng
tài thương mại với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp. Trọng tài được hiểu
là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài được thừa
nhận là cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với tòa án. Trong trường hợp
tranh chấp xảy ra giữa các bên thỏa thuận đưa ra giải quyết tại trọng tài và thỏa
thuận này có hiệu lực mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu tòa án giải quyết
thì tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Tuy nhiên
xuất phát từ bản chất vốn có, trọng tài có những đặc trưng khác hẳn với tòa án
thể hiện ở những điểm sau:
Trọng
tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, không do Nhà nước thành lập mà do các trọng
tài viên thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh
doanh thương mại. Do đó khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà nhân
danh “quyền lực tư” để đưa ra phán quyết.
Trọng
tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên
chủ thể tranh chấp đối với trọng tài, có nghĩa là chính các chủ thể tranh chấp
với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực
xét xử cho trọng tài.
Phán
quyết của trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan xét xử có thẩm quyền, vừa
thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên trọng tài không phải là cơ
quan xét xử nhà nước cho nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực
nhà nước. Phán quyết chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp mà
không có giá trị bắt buộc với bên thứ ba. Như vậy, với tư cách là một cơ quan
tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp khi được các chủ thể tranh chấp lựa chọn.
Trọng
tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài
ad-hoc) và trọng tài thường trực.
Trọng
tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập
để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi
giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng
tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng rãi ở
các nước trên thế giới. Pháp luật trọng tài của các nước trên thế giới đều ghi
nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên quy định của các nước về
hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu, rộng khác nhau.
Bản chất
của trọng tài vụ việc
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp
và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
Tính chất vụ việc hay lâm thời của hình thức trọng tài này
thể hiện ở chỗ trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh
chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ thể giữa các bên. Hình thức trọng tài này
chỉ tồn tại và hoạt động trong thời gian giải quyết tranh chấp giữa các bên,
khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì trọng tài tự chấm rứt hoạt động.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực,
không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên tự lựa chọn hoặc chỉ định có thể
là người có tên trong danh sách trọng tài hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của
bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng
riêng cho mình
Trọng
tài vụ việc chỉ được các bên lựa chọn thành lập khi phát sinh tranh chấp nên
quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
Tuy nhiên để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc xây dựng
quy tắc tố tụng, các bên có thể lựa chọn các quy tắc phổ biến, mà thông thường
là quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài uy tín ở trong nước và quốc tế.
Ở các
nước trên thế giới trọng tài thường tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các
trung tâm trọng tài (Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore, Trung tâm trọng tài
quốc tế Hồng Kông), các hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, Hiệp hội
trọng tài Nhật Bản) hay các viện trọng tài (Viện trọng tài Stockholm – Thụy Điển) nhưng chủ yếu là dưới dạng các trung tâm trọng
tài.
Về bản chất hầu hết trọng tài các nước trên thế giới đều tồn
tại dưới hình thức trọng tài phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước,
tuy nhiên vẫn có một số khác biệt trong pháp luật trọng tài một số nước châu Á
như: Trung Quốc, Thái Lan. Ở Trung Quốc, các ủy ban trọng tài hợp đồng kinh tế
là những cơ quan nhà nước trực cục quản lý hành chính công thương các cấp. Ở
Thái Lan thì trực thuộc Bộ tư pháp.
Theo pháp luật Việt
Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ có tư cách pháp nhân, có con dấu,
có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
Đặc trưng của trung tâm trọng tài này là:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính
phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp
nhân, tồn tại độc lập với nhau.
+ Các
trung tâm trọng tài thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp nhân được quy định tại
Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 bao gồm:
+ Được thành lập hợp pháp;
+ Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
+ Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản đó;
+ Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một
cách độc lập
Thứ ba, tổ chức ở các trung tâm trọng tài rất gọn nhẹ.
Cơ cấu tổ chức của các trung tâm trọng tài gồm có ban điều
hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Ban điều
hành thì gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch của trung tâm trọng tài và
có thể có tổng thư ký của trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
Bên cạnh
ban điều hành thì các trung tâm trọng tài tham gia vào việc giải quyết tranh chấp
khi được các bên tranh chấp chọn hoặc được chỉ định.
Thứ
tư, mỗi trung tâm trọng tài tự lựa chọn lĩnh vực hoạt động và có
quy tắc tố tụng riêng, việc lựa chọn lĩnh vực hoạt động của các trung tâm trọng
tài là hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ trọng tài viên. Mỗi trung tâm trọng tài
đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng, được xây dựng dựa vào
cơ cấu đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với các quy định
của pháp luật trọng tài thương mại.
Thứ
năm, hoạt động xét xử của các trung tâm trọng tài được tiến hành
bởi các trọng tài viên của trung tâm.
Các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài được quy định tại Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 bao gồm
các nguyên tắc sau đây:
Một là, trọng
tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm
điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Hai là, trọng
tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
Ba là, các bên
tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách
nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Bốn
là, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Năm là, phán
quyết trọng tài là chung thẩm.
Các điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định cụ
thể tại Điều 5 Luật trọng tài thương mại
2010 bao gồm các điều kiện sau:
Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các
bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc
sau khi xảy ra tranh chấp.
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất
năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế
hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác.
Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là
tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu
lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp
các bên có thoả thuận khác.
Việc giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận tiện,
tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên. Nếu như việc giải quyết tranh chấp tại
Tòa án phải trải qua rất nhiều trình tự, thủ tục, phải đợi một thời gian nhất định,
để giải quyết xong một vụ tranh chấp có khi mất cả năm trời thì việc giải quyết
tranh chấp thông qua trọng tài các bên có thể tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm, phương thức giải quyết
tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên
trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian
và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
Các bên được lựa chọn trọng tài viên phù hợp với
tính chất của vụ tranh chấp, các trung tâm trọng tài hiện nay đã có số lượng trọng
tài viên khá đông đảo nhiều những trọng tài viên có kỹ năng giải quyết tranh chấp
vững vàng bao gồm cả kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, đội ngũ trọng tài đã
dạng ở nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau có cả trọng tài viên trong nước và
trọng tài viên người nước ngoài.
Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể
lựa chọn luật áp dụng, hoặc trong trường hợp các bên không có thoản thuận về luật
áp dụng thì Hội đồng trọng tài sẽ chọn luật phù hợp nhất với vụ tranh chấp để
giải quyết.
Trọng tài viên giải quyết tranh chấp một cách độc lập,
vô tư, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Một hội đồng trọng tài có thể gồm một
hoặc ba trọng tài viên hoặc nhiều hơn nữa nếu các bên có yêu cầu. Một trọng tài
viên có thể do một bên chỉ định hoặc các bên thống nhất lựa chọn. Trong bất cứ
trường hợp nào thì trọng tài viên cũng phải độc lập, khách quan. Trọng tài viên
là người đứng ở giữa phân giải để đi đến một phán quyết công bằng, do đó không
được để mình bị ảnh hưởng bởi một bên tranh chấp (cho dù bên đó là bên đã chỉ
định mình) hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác. Trong một số trường hợp trọng tài
viên cũng có thể bị thay đổi như việc thay đối với các thành viên của Hội đồng
xét xử trong tố tụng Tòa án, việc thay đổi trọng tài viên được được ghi nhận
trong Khoản 1 Điều 42 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và sẽ bị thay đổi
trong các trường hợp: Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại
diện của một bên; Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; Có
căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan; Đã là hòa giải
viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó
ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn
bản, trong quy tắc tố tụng riêng của các trung tâm trọng tài cũng luôn được
thể hiện vấn đề này.
Mặt khác, khi xét xử, trọng tài viên phải
đánh giá tình tiết vụ việc, chứng cứ, và luận điểm của các bên một cách ðầy ðủ,
khách quan, vô tý, tránh những nhận ðịnh chủ quan, cảm tính, vô cãn cứ. Ðể đảm
bảo hiệu lực của tố tụng trọng tài, trọng tài viên cũng phải tuân thủ đầy đủ
các quy định pháp luật có liên quan trong quá trình xét xử cũng như khi ra phán
quyết. Nếu phán quyết của trọng tài vi phạm pháp luật thì có thể bị hủy.
Trọng tài xét xử một cách công khai, các bên được giữ bí mật
về vụ tranh chấp, không ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Đây là một ưu điểm
đáng chú ý giữa trọng tài và Tòa án. Trong khi tố tụng Tòa án và bản án
của tòa về nguyên tắc được công khai thì tố tụng trọng tài và bản án trọng tài
lại ngược lại. Ngoại trừ chính các bên tham gia tranh chấp và hội động trọng
tài cùng những bên liên quan được các bên đồng ý thì không một ai khác được
tham gia vào quá trình xét xử trọng tài và quá trình xét xử trọng tài ra ngoài
mà không được sự đồng ý của bên còn lại. Bên cạnh đó, mỗi bên và hội đồng trọng
tài cũng không được tiết lộ bất kỳ thông tin gì về tranh chấp do vậy các thông
tin về vụ tranh chấp sẽ được giữ kín, uy tín, công việc kinh doanh của các bên
không bị ảnh hưởng, điều này là rất quan trọng bởi vì thông tin về vụ tranh chấp
có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của các bên liên quan. Phán quyết trọng tài là
bảo mật và được giữ kín, không tiết lộ cho công chúng nếu các bên không có thỏa
thuận khác.
Phán
quyết của trọng tài là phán quyết trung thẩm, có hiệu lực ngay, không bị kháng
cáo, kháng nghị, được cơ quan thi hành án thi hành như một bản án dân sự. Trong
khi các quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng nghị, kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm, hoặc có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm và cần phải có sự tham gia của nhiều bên khác nhau thì các phán quyết
của trọng tài lại rất linh động, đơn giản mang tính chung thẩm tức là nó có giá
trị pháp lý ngay đối với các bên, tính chung thẩm không chỉ có giá trị ngay đối
với các đương sự mà nó còn không bị chống án hay kháng nghị…Tuy nó là một quyết
định mang tính pháp lý như quyết định của Tòa án nhưng nó cũng không dặt vấn đề
cưỡng chế thi hành nên khi bên nào không đồng ý với phán quyết của trọng tài
cũng có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy phán quyết Trọng tài khi có căn cứ cho
rằng phán quyết đó là vi phạm các quy định của pháp Luật trọng tài thương mại.
Phán
quyết trọng tài có hiệu lực không chỉ ở Việt Nam mà còn có hiệu lực ở trên 150
quốc gia, vùng lãnh thổ có tham gia công ước Newyork năm 1958 về thi hành phán
quyết trọng tài mà Việt Nam đã tham gia công ước này năm 1995.
Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nước
nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc tài sản
ở Việt Nam thì đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành.
Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được công
nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.
Với những gì đã phân
tích trên đây ta thấy việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong nền kinh
tế thị trường hiện này bằng trọng tài thương mại là một trong những phương pháp
khá hữu hiệu, thể hiện nhiều ưu điểm so với một số hình thức giải quyết tranh
chấp khác mà các bên tranh chấp hoàn toàn có thể lựa chọn để giải quyết khi có
tranh chấp sảy ra.
Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật
Trọng tài thương mại 2010 có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng
tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng
lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có
trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể
là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được
đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của
mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh chấp
được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải quyết đều
do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp,
kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà
chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ.
Đó là quá trình sàng lọc mang tính xã hội.
So với
Pháp lệnh về trọng tài thương mại năm 2003 Luật trọng tài thương mại năm 2010
được Quốc hội ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2011 cơ bản đã đáp ứng được những tồn tại hạn chế trong pháp lệnh trước đây
như các quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên đã được mở rộng đối tượng bao gồm
cả cá nhân là người nước ngoài, cho phép trọng tài nước ngoài được mở chi
nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam, Luật
cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp
với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp
dẫn đối với các bên tranh chấp. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua
việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng,
áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài
bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh bằng việc đưa ra các trường hợp mà phán quyết trọng tài bị hủy.
Luật trọng tài thương mại cũng đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá
trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên: Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối
quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động
trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng
tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài;
tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài;
giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm
chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên.
Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền
này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh trọng
tài thương mại.
Luật Trọng tài thương mại đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài
thương mại 2003 về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng
tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng
tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2). Đây
là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại so so
với Pháp lệnh Trọng tài thương mại và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng
Trọng tài của các nước trên thế giới.
Đối với
các nước trên thế giới việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng
tài đã rất phổ biến bởi lẽ đây là phương pháp giải quyết nhanh chóng, mềm dẻo,
linh hoạt, giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư giảm nhiều thời gian, công
sức chi phí cho việc giải quyết tranh chấp của mình đảm bảo quyền tự định đoạt của
các bên. Ở Việt Nam quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại, theo đó luật
này ghi nhận chủ chương mở các hình thức giải quyết trong tranh chấp, các hoạt
động trong kinh doanh, thương mại và một số tranh chấp dân sự khác, tuy nhiên
hình thức này lại chưa được các bên sử dụng nhiều so với lựa chọn bằng hình thức
bằng tòa án.
Thực
trạng, vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài ở
Việt Nam hiện nay chưa được như mong muốn, chúng ta đã ban hành Luật trọng tài
thương mại và có hiệu lực từ ngày…nguyên nhân là do các trung tâm trọng tài vẫn
chưa nhận được nhiều các tranh chấp, hiện nay chúng ta có các trung tâm trọng
tài thương mại như: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam 9VIAC), Trung tâm trọng
tài thương mại Quốc tế Á Châu (ACIAC), Trung tâm trọng tài thương mại Thành phố
Hồ Chí Minh (TRACENT), Trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ, Trung tâm trọng
tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương (PIAC), Trung tâm trọng tài thương mại
tài chính ngân hàng và Trung tâm trọng tài thương mại tài chính. Tổ chức lớn nhất
hiện nay là VIAC đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong năm 2013 cũng chỉ giải
quyết 99 vụ , còn nhiều các trung tâm trọng tài hiện nay nhận được rất it vụ,
thậm chí còn không nhận được vụ nào trên phạm vi cả nước trong năm 2013 các
trung tâm trọng tài mới chỉ giải quyết được 360 vụ, trong khi các vụ án tranh chấp tại Tòa án lại
rất nhiều, chỉ tính riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo Báo cáo kết quả
công tác năm 2013 và nhiêm vụ công tác năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội phục vụ ký họp thứ 8 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV (số
liệu tính từ ngày 01/10/2013 đến ngày 30/9/2014) thì các Tòa án trên địa bàn thành phố đã thụ
lý 25.996 vụ án các loại và đã giải quyết 25.139 vụ án trong đó các vụ án về kinh doanh thương
mại là 1.424 vụ, giải quyết 1.284 vụ, trên phạm vi cả nước theo số liệu thống
kê số lượng án của Tòa án nhân dân tối cao trong năm 2013 Tóa án đã thụ lý là
332.944 vụ án các loại trong đó số vụ án về kinh tế là 14.767 vụ. Như vậy việc giải quyết tranh chấp thông qua
trọng tài nó chưa phản ánh đúng các tranh chấp phát sinh trong cộng đồng các
doanh nghiệp, các nhà đầu tư, số lượng các vụ án giải quyết tại các Tòa án là rất
cao, tuy nhiên tại các trung tâm trọng tài thương mại lại rất it nên nó không
phản ánh đúng tình hình các tranh chấp hiện nay đây là một điều rất đáng tiếc bởi
các trung tâm trọng tài là một cách phát huy được tối đa quyền lợi của các bên,
các bên có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn hình thức trọng tài, địa điểm trọng
tài, các trọng tài viên, trong các vụ án có tranh chấp nước ngoài thì các bên
cũng có thể lựa chọn được luật áp dụng, thậm chí cả địa điểm giải quyết ở nước
ngoài, các vấn đề về giữ bí mật, quyết định của trọng tài mang tính chung thẩm,
giải quyết nhanh, các chi phí các bên cũng có thể tự lựa chọn ở mức vừa phải.
Hiện
nay số lượng các trọng tài viên của các trung tâm trọng tài đã được nâng lên
đáng kể về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên số lượng này vẫn còn tương đối ít,
hiện nay số lượng các trọng tài viên trên cả nước mới chỉ có 288 người [2] tuy nhiên số lượng này lại
chủ yếu tập chung ở trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam với 151 người
còn các trung tâm khác thì khá it, cùng với đó là bảy trung tâm trọng tài phân
bố thưa thớt trên phạm vi cả nước bao gồm hai trung tâm có trụ sở tại Hà Nội, bốn
trung tâm ở Thành phố Hồ Chí Minh và một trung tâm ở Cần Thơ đây cũng là một
dào cản khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn
trung tâm trọng trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Số lượng các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại trọng tài
trong những năm qua không ngừng tăng lên trong năm 2013 các trung tâm trọng tài
trên cả nước đã giải quyết 360 vụ tranh chấp. Điều này thể hiện sự quan tâm hơn
nữa của các doanh nghiệp đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài,
tuy nhiên sự gia tăng các vụ tranh chấp được giải quyết tại trọng tài là không
lớn nó chỉ tập chung ở một số trung tâm trọng tài còn một số trung tâm trọng
tài thì giường như it có sự tiến triển chúng ta vẫn còn kém xa xo với các quốc
gia, vùng lãnh thổ trong khu vực về số vụ tranh chấp được giải quyết thông qua
trọng tài, biểu đồ về số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết tại Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2014 sau đây sẽ cho chúng ta
thấy điều đó.
Biểu đồ 2.1. Thống kê số vụ tranh chấp được giải quyết tại
trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(Nguồn VIAC)
Việc
các trung tâm trọng tài đã được thành lập từ lâu nhưng hiện nay hiệu quả, vai
trò của trọng tài thương mại giường như chưa được đề cao xuất phát từ một số
nguyên nhân chính sau đây:
Các
doanh nghiệp thường muốn giải quyết các vụ tranh chấp thông qua Tòa án hơn là
giải quyết thông qua trọng tài, họ thường tin vào phán quyết của Tòa án hơn là
trọng tài mặc dù trên thực tế phán quyết của Trọng tài cùng tương đương như
phán quyết của Tòa án ở thời điểm hiện tại, họ chưa tin lắm về hiệu
lực thi hành các quyết định trọng tài và do họ chưa nhận biết được tính ưu việt
hơn của phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài so với phương thức giải quyết
tranh chấp bằng Tòa án, nhiều doanh nghiệp Việt
Nam do không có kinh nghiệm nên rất thờ ơ hoặc không có thỏa thuận nào về việc
giải quyết tranh chấp khi thương thảo hợp đồng
vì vậy khi có tranh chấp sảy ra cơ quan đầu tiên mà các bên nghĩ đến để
giải quyết tranh chấp thường là Tòa án.
Nguyên
nhân từ phía các cơ quan Tòa án và cơ quan thi hành án, theo quy định của phap
luật Tòa án và cơ quan thi hành án có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt động của trọng
tài thương mại tuy nhiên trên thực tế sự hỗ trợ này còn khá khiêm tốn. “ Những
nguyên nhân được nêu ra bao gồm: các hoạt động trọng tài
quá ít (84,3%), Tòa án không có thời gian cho hoạt động liên quan đến trọng tài
(43,1%), trọng tài viên chưa yêu cầu Tòa án hỗ trợ (43,1%) và quy định của pháp
luật chưa phù hợp (35,3%), … Về cơ chế thi hành án, phần lớn cho rằng quy định
pháp luật chưa phù hợp và việc chưa có quyết định trọng tài được yêu cầu thi
hành là hai nguyên nhân cơ bản giải thích việc cơ quan thi hành án chưa có hoạt
động hỗ trợ trọng tài.”[3]
Việc
đào tạo các chuyên gia giường như vẫn chưa được chú trọng, nền trọng tài muốn
phát triển được thì cần phải có đội ngũ chuyên gia kinh nghiệm, giải về chuyên
môn, nghiệp vụ. Nên đưa các chuyên gia trẻ tham gia các khóa học về trọng tài,
đưa đi học tại các nơi có điều kiện giảng dạy tốt hoặc cũng có thể đưa đi các
nước có nền đào tạo pháp luật về trọng tài tiến tiến, hoặc mời các luật sư danh
tiếng của nước ngoài cũng như Luật sư tại các hãng luật ở Việt Nam, vừa phải sử
dụng được các ngoại ngữ, am hiểu pháp luật Việt Nam, am hiểu luật pháp quốc tế
có thể sử dụng được tiếng Việt như vậy việc mời họ về là rất hữu ích cho trọng
tài.
Từ những
thực trạng và nguyên nhân trên đây cho ta thấy việc các trung tâm trọng tài đã
được thành lập từ lâu, với một vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các
tranh chấp thương mại nhưng hiện nay việc giải quyết thông qua các trung tâm trọng
tài là chưa được như mong muốn, vì vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra được những
giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của trọng tài
thương mại.
Cần
nâng cao sự giám sát, hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài, việc hỗ trợ các
trung tâm trọng tài của Tòa án vừa góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh
chấp của trọng tài mà còn góp phần giảm sức ép công việc của Tòa án trong việc
giải quyết các tranh chấp thương mại, sự hỗ trợ của Tòa án là một điều rất quan
trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, mặc dù
Luật trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã có
nhiều quy định nhằm tăng cường vai trò của trọng tài thương mại trong giải quyết
tranh chấp như: cho phép Hội đồng trọng tài được thu thập chứng cư (Điều 46),
triệu tập nhân chứng (Điều 47), áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều
48,49), hạn chế nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Tòa án tuyên hủy không phù
hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 như quy định một bên khi không đồng
ý với phán quyết của trọng tài có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy với
quy định mới của Luật trọng tài thương mại 2010 làm mất đi tính trung thẩm của
phán quyết trọng tài, các nguy cơ này đã bị hạn chế tối đa khi quy định rõ các
trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy (Điều 68). Tuy nhiên, việc pháp luật quy
định như vậy là chưa đủ mà muốn đạt được kết quả tôt thì sự hỗ trợ của Tòa án
là rất cần thiết trong một số việc như đăng ký phán quyết trọng tài, đảm bảo sự
có bặt của nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu,…góp
phần tạo điều kiện cho trọng tài làm việc hiệu quả.
Các cơ quan thi hành án cần đảm bảo các phán
quyết của trọng tài được thực thi trên thực tế để đảm bảo các phán quyết của trọng
tài không bị hủy, tạo cơ hội cho phán quyết của trọng tài có thể sửa đổi mà
không vi phạm pháp luật. Các cơ quan thi hành án cần thi hành phán quyết trọng
tài một cách có hiệu quả, một số doanh nghiệp nghĩ rằng phán quyết của trọng
tài là không có hiệu lực hoặc hiệu lực kém hơn phán quyết của Tòa án. Vì vậy
các cơ quan thi hành án cần thi hành các phán quyết của Trọng tài, đây cũng là
một thông điệp để nhắn đến cộng đồng các doanh nghiệp rằng Nhà nước sẽ đứng ra
hỗ trợ và không phải băn khoăn về các phán quyết của trọng tài.
Về
phía các trung tâm trọng tài khi được cho phép thành lập thì cần rút kinh nghiệm
của các tổ chức khi thành lập thì thành lập một cách ồ ạt khiến cho việc kiểm
soát không có hiệu quả như vậy cũng làm cho sự giám sát, hỗ trợ của phía Tòa án
cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy khi thành lập thì cần xem xét kĩ càng các trung tâm nếu
đủ điều kiện thì thành lập, nếu chưa đủ điều kiện thì cần xem xét lại, mới đây
nhất hai trung tâm trọng tài bị thu hồi giấy phép thành lập theo Quyết định số 2042/QĐ-BTP và quyết định số
2041/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ tư pháp ngày 27 tháng 9 năm 2013 là trung tâm trọng
tài thương mại Hà Nội và trung tâm trọng tài Viễn Đông là một bài học quý giá
cho các trung tâm trọng tài khác khi thành lập.
Cần
nâng cao chất lượng của trọng tài viên, Làm tốt công tác đào tạo,
tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho trọng tài viên để tạo nguồn nhân lực có chất
lượng cho các trung tâm trọng tài. Cùng với việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cần
chú trọng đào tạo kiến thức xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiên tiến và kỹ
năng thực hiện công, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để
tăng cường đội ngũ cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế. Có thể mời những trọng
tài viên thuộc các trung tâm trọng tài uy tín trên thế giới để giải quyết các vụ
tranh chấp hoặc đưa trọng tài viên đến các trung tâm này nhằm học hỏi kinh nghiệm,
nâng cáo kỹ năng cho trọng tài viên. Tăng cường nâng cao kỹ năng hòa giải của
các trọng tài viên khi tham gia giải quyết tranh chấp, tăng khả năng duy trì mối
quan hệ giữa các bên tranh chấp, giữ được tính bảo mật của vụ việc theo đúng
nguyên tắc xét xử của trọng tài, không làm phương hại đến quyền và lợi ích của
mỗi bên.
Các trọng
tài viên cần nắm rõ kỹ năng, quy trình giải quyết tranh chấp nhất là tranh chấp
quốc tế,hạn chế tối đa sự nhũng nhiễu của các trọng tài viên, hay bất cứ hành động
tiêu cực nào khác dẫn đến làm ảnh hưởng đến các bên tham gia giải quyết tranh
chấp tại trọng tài, các trọng tài viên khi tiến hành giải quyết tranh chấp cần
thật sự công minh, tránh tình trạng nể nang do quen biết, có quan hệ tình cảm,
quan hệ gia đình mà giải quyết không công bằng ảnh hưởng đến quyền lợi của bên
còn lại.
Đối với
các doanh nghiệp cần phải vượt qua những tư duy trước đây, để có thể lựa chọn một
phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng tiện lợi cho mình, mà các nước
trên thế giới đã sử dụng tương đối nhiều. Hiệu quả hoạt động của trọng tài phụ
thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp, các nhà đầu tư vì vậy nâng cao nhận thức
của giới doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp vẫn còn chưa mặn
mà lắm với cơ chế giải quyết bằng trọng tài thương mại. Tăng cường công tác
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài cũng như nâng cao chất lượng dịch
vụ chắc chắn sẽ khiến các doanh nghiệp có được cái nhìn khác hơn về những ưu điểm
khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Đối với
các trường đại học, các học viện có đào tạo chuyên ngành luật cần chú trọng,
quan tâm nhiều hơn nữa đối việc đào tạo các vấn đề về trọng tài thương mại
trong chương trình giảng dạy của mình, đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức
nhất định đối với các vấn đề về trọng tài thương mại. Trong tương lai những
sinh viên luật này rất có thể cũng sẽ hình thành nên một đội ngũ nguồn nhân lực
quan trọng để phát triển nền trọng tài.
Đối với
các luật sư, các chuyên gia pháp lý đây là người có sự am hiểu các vấn đề về
pháp lý rất rõ ràng nên khi tư vấn cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cần hướng
cho các bên biết về các phương thức giải quyết tranh chấp, cần nêu lên các thuận
lợi, khó khăn khi lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp nhất là về
phương thức trọng tài để các bên lựa chọn để giải quyết khi có tranh chấp sảy
ra.
Đối với
các trung tâm trọng tài vấn đề chi phí khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thì cần có một bảng chi phí hợp lý hơn, theo biểu phí của một số trung tâm trọng
tài như Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam áp dụng cho các vụ tranh chấp có tố
tụng trọng tài áp dụng từ ngày 24 tháng 3 năm 2014 thì: Giả sử khi các bên muốn
giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài với giá trị của vụ tranh chấp là 2 tỷ
đồng thì phí trọng tài sẽ là 118000000 (một trăm mười tám triệu đồng), trong
khi đó cũng một vụ tranh chấp có giá trị hợp đồng tương đương thì khi giải quyết
thông qua Tòa án thì mức án phí mà các bên phải nộp là 72000000 ( bảy mươi hai
triệu đồng) một con số khá chênh lệch so với khi giải quyết thông qua trọng
tài, đây cũng là một vấn đề mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư rất quan tâm
khi lựa chọn hình thức giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy các Trung
tâm trọng tài cần phải xây dựng một biểu phí thích hợp tạo điều kiện cho các
bên khi tiến hành giải quyết tại trọng tài.
Đề tài
đã tập chung nghiên cứu được các vấn đề lý luận về hoạt động giải quyết tranh
chấp thương mại thông qua các trung tâm trọng tài qua đó đã nêu lên được thực
trạng hoạt động và tìm ra một số nguyên nhân và từ đó đưa ra được một số giải
pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tài. Hy vọng
cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước hiện nay việc giải quyết các
tranh chấp thương mại thông qua trọng tài sẽ ngày được các bên biết đến và sử dụng
nhiều hơn và xem đây là một trong những hình thức giải quyết hữu hiệu nhất bên
cạnh Tòa án để đáp ứng nguyện vọng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, giảm
thiểu số vụ án mà các Tòa án phải giải quyết hàng năm qua đó tăng cường vai trò
của các trung tâm trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại tiến
tới hội nhập, cạnh tranh được với các trung tâm của các nước, các vùng lãnh thổ
có nền trọng tài phát triển như Hoa Kỳ, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông…
[1] Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại,
Nxb công an nhân dân (2012);
[2] Luật trọng tài thương mại 2010, Nxb Lao động;
[3] Bộ tư pháp, Đặc sản tuyên truyền luật trọng tài thương mại. Số
7/2013;
[4] Bộ Tư pháp, Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng
tài thương mại, (2010);
[5] Tòa án nhân dân tối cao, thống kê lượng án, toaan.gov.vn;
[6] Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Báo cáo kết quả công tác năm
2013 và nhiêm vụ công tác năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phục vụ
kỳ họp thứ 8 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV.
[7] Hội luật gia Việt Nam, Báo cáo tổng kết thi hành pháp lệnh trọng
tài thương mại 2003, (2009);
[8] Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Thống kê số vụ tranh chấp tại VIAC từ 1993 đến
2014, (2015);
[9] Phan
Thông Anh, Tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không “mặn mà” với việc giải
quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài?, (2009)
[10] Vũ Ánh Dương , Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận
các chuẩn mực Quốc tế, Nghiên cứu lập pháp số 14(151),tháng 7/2009;
[11] Bạch Thị
Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của toà án, Nghiên cứu lập phap số 151, tháng 7/2009;
[12] Trần Thị Tường Vân, Hồ Đức Thảo, Nguyễn Thế Đức Tâm,
Ngô Nguyễn Thảo Vy, Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại trên hành
chình hội nhập và phát triển, Hội nghị khoa học trẻ ĐHQG-HCM lần 1.
[1]
Theo bài viết “Đặc sản tuyên truyền luật trọng tài thương mại”, Bộ tư pháp
[2]
Theo báo cáo số 15/BC-BTP của Bộ tư pháp, ngày 20 tháng 01 năm 2014
[3]
Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại
2003, (2009)
MỤC LỤC
Trang
Nguyễn Văn Công-Khoa Luật- Đại học Vinh
No comments:
Post a Comment