HOME

Friday, December 25, 2015

Đề tài: NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI


Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vấn đề về tranh chấp thương mại là một vấn đề không thể tránh khỏi giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, hiện nay vấn đề này có rất nhiều những cách giải quyết khác nhau như giải quyết thông qua con đường thương lượng, giải quyết thông qua hòa giải, bằng Tòa án, bằng trọng tài thương mại…
Một trong những cách thức rất hiệu quả hiện nay mà các bên có thể lựa chọn đó là giải quyết thông qua trọng tài thương mại. Trên thế giới việc giải quyết các tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng được các bên trong tranh chấp thương mại ưu tiên lựa chọn khi có tranh chấp xảy ra, ở Việt Nam các trung tâm trọng tài thương mại cũng đã xuất hiện từ khá lâu tuy nhiên hiện nay việc lựa chọn giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức này ở Việt Nam còn khá khiêm tốn, các bên thường lựa chọn hình thức giải quyết thông qua con đường Tòa án. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến uy tín của các bên trong tranh chấp thương mại bởi việc giải quyết các tranh chấp thông qua Tòa án thường phải diễn ra theo nguyên tắc công khai mà còn kéo theo đó là gánh nặng cho Tòa án khi phải giải quyết quá nhiều các vụ việc phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại nói riêng và các tranh chấp trong đời sống xã hội nói chung trong khi đó các trung tâm trọng tài ra đời từ lâu lại không có việc làm, nhiều trung tâm dù đã được thành lập rất lâu nhưng thường rơi vào tình trạng nhàn rỗi.
Ở nước tà từ năm 2003 pháp lệnh về trọng tài thương mại đã ra đời tiếp sau đó là luật trọng tài thương mại năm 2010 được hướng dẫn tại Nghị định số 63/2011/NĐ-CP Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn một số điều của  Luật trọng tài thương mại năm 2010 và Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP Nghị quyết hướng dẫn luật trọng tài thương mại đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền pháp luật trọng tài Việt nam hướng đến những chuẩn mực chung của thế giới. Những quy định này có những đóng góp to lớn cho việc đặt nền móng hình thành và phát triển hệ thống trọng tài. Mặc dù vậy, hệ thống quy định hiện hành về trọng tài thường mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa trở thành phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp liên quan.
Chính vì những lí do trên đây mà em quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài thương mại” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Hiện nay vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài cũng đã có một số đề tài, bài viết, công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề trọng tài thương mại của các tác giả như: Đề tài “giải pháp nâng cao vai trò của trọng tài thương mại trong các tranh chấp kinh tế” của Tiến sĩ Phan Văn Tính_Viện trưởng viện  Rised; đề tài “Sự hỗ trợ của Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Tống Văn Huyền. Ngoài ra còn một số bài viết liên quan như: bài viết “làm thế nào để trọng tài thương mại Việt Nam làm chỗ dựa của doanh nghiệp” của tác giả Đỗ Văn Đại; bài viết “Tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không "mặn mà" với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài” của Thạc sĩ, Luật sư Phan Thông Anh; “giải quyết tranh chấp bằng trọng tài: Thực tiễn tại Việt Nam” của PGS,TS Trần Thị Lan Hương đăng trên tạp chí tài chính số 4/2014;…
Đối tượng nghiên cứu của đề tài mà em lựa chọn là hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài tại Việt Nam, thực trạng hoạt động và hướng gải quyết.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số quy định của pháp luật về trọng tài thương mại và thực trạng hoạt động của một số trung tâm trọng tài ở nước ta hiện nay.

Đề tài tập chung nghiên cứu về ba nội dung chính
Thứ nhất, nêu được các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.
Thứ hai, nêu lên được thực trạng giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài thương mại.
Thứ ba, nêu lên được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại.
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng một phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thống kế, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp…
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của đề tài này được chia thành ba chương chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại;
Chương 2: Thực trạng hoạt động của trọng tài thương mại ở nước ta hiện nay;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trong giải quyết tranh chấp thương mại của trọng tài thương mại.



Khái niệm về tranh chấp thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong Điều 238 Luật thương mại năm 1997 theo quy định tại điều luật này thì Tranh chấp thương mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”. Tuy nhiên khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của luật thương mại năm 1997 lại có nội hàm rất hẹp, quan niệm về tranh chấp thương mại và hoạt động thương mại năm 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp không được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét về bản chất hoàn toàn có thể coi là tranh chấp thương mại trong ngữ cảnh đương đại. Điều này đã tạo ra những xung đột pháp luật giữa pháp luật quốc gia với luật quôc tế.
Luật thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 06 năm 2005 thì không đưa ra khái niệm tranh chấp thương mại, tuy nhiên dựa vào Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ xung năm 2011 quy định về các tranh chấp về kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án gồm có:
+ Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm: Mua bán hàng hóa; Cung ứng dịch vụ;  Phân phối; Đại diện, đại lý; Ký gửi;Thuê, cho thuê, thuê mua; Xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; Vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; Đầu tư, tài chính, ngân hàng; Bảo hiểm; Thăm dò, khai thác.
+ Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
+ Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
+ Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định.
Mặc dù Bộ luật tố tụng dân sự 2004 không sử dụng thuật ngữ “tranh chấp thương mại” mà sử dụng thuật ngữ “tranh chấp về kinh doanh, thương mại” nhưng nội dung của các tranh chấp về kinh doanh, thương mại được liệt kê tại Điều này thực chất là các tranh chấp thương mại theo hướng tiếp cận của Luật thương mại năm 2005.
Từ nội dung được xem xét trên đây ta có thể rút ra định nghĩa về tranh chấp thương mại như sau: “tranh chấp thương mại là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động thương mại”.
“Trọng tài kinh tế nhà nước:
Trọng tài kinh tế nhà nước là mô hình trọng tài do Nhà nước thành lập ra, có chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh nghiệp nhà nước. Mô hình này được xác lập bằng Nghị định 20/TTg ngày 14/04/1960, trước khi được nâng cấp tại Pháp lệnh Trọng tài kinh tế nhà nước năm 1990, theo đó, trọng tài được tổ chức ở ba cấp, đó là trọng tài kinh tế nhà nước, trọng tài kinh tế tỉnh và trọng tài kinh tế huyện. Như vậy, thực chất, trọng tài kinh tế nhà nước là cơ quan của Nhà nước, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế, vừa thực hiện chức năng xét xử của Tòa án nhằm giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ chức kinh tế nhà nước, chưa thể hiện được vai trò trọng tài. Trong khi đó toà án nhân dân thời kỳ này không có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp kinh tế mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự giữa các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình hoặc tranh chấp liên quan đến hàng hoá có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng. Mô hình trọng tài kinh tế tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa án kinh tế theo Luật sửa đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993. Bắt đầu từ thời điểm này, các Tòa án kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.
Trọng tài kinh tế phi nhà nước:
Đối với trọng tài phi nhà nước, tồn tại hai mô hình khác nhau. Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của Hội đồng Chính phủ về việc thành lập Hội đồng Trọng tài ngoại thương. Tiếp sau đó, ngày 05/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập Hội đồng Trọng tài hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài ngoại thương và Hội đồng Trọng tài thương mại hàng hải. Mô hình trọng tài thứ hai là các trung tâm trọng tài kinh tế được thành lập theo Nghị định số 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ. Có 05 trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị định này (02 Trung tâm tại thành phố Hà Nội, 01 Trung tâm tại thành phố Hồ Chí Minh, 01 Trung tâm tại Cần Thơ và 01 Trung tâm tại Bắc Giang).” [1]
Hiện nay các trung tâm trọng tại đã được thành lập ở ba thành phố trực thuộc trung ương bao gồm 2 trung tâm ở Hà Nội , 4 trung tâm tại Thành phố Hồ Chí Minh và 1 trung tâm tại Cần Thơ.
Khái niệm về trọng tài thương mại lần đầu tiên được đề cập đến trong pháp lệnh về trọng tài thương mại năm 2003 khi đó trọng tài thương mại được hiểu là “trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp lệnh này quy định”.
Đến ngày 17 tháng 6 năm 2010 Quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại năm 2010. Luật trọng tài thương mại 2010 cũng đã đưa ra khái niệm về trọng tài thương mại. Theo đó khái niệm về trọng tài thương mại được quy định trong Luật trọng tài thương mại 2010 và được định nghĩa tại Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại như sau: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của luật này”.
Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán
Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết trọng tài thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc, thẩm quyền của trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật; các đương sự có thể lựa chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào trên thế giới để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã được thỏa thuận thì phán quyết của trọng tài có tính chất tài phán và bắt buộc các bên phải tuân thủ.
Đương sự được tự định đoạt
Phương thức trọng tài bảo đảm quyền tự định đoạt của các đương sự cao hơn so với phương thức Tòa án, thể hiện cơ bản là các đương sự trong tố tụng trọng tài có quyền lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp dụng đối với tranh chấp…
Phán quyết trọng tài là chung thẩm
Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo trước bất kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ trường hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán quyết trọng tài). Đặc điểm này giúp trọng tài có điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp thương mại.
Có sự hỗ trợ của Tòa án
Pháp luật các nước nhìn chung, trong đó có Việt Nam nói riêng, đều quy định cơ chế hỗ trợ từ phía Tòa án đối với tổ chức và hoạt động của trọng tài. Thông qua trình tự công nhận và cho thi hành, Tòa án đảm bảo thực thi trên thực tế những quyết định của trọng tài khi một hoặc các bên đương sự không tự nguyện thực hiện (tại Việt Nam, phán quyết của trọng tài Việt Nam đương nhiên có hiệu lực thi hành). Ngoài ra, Tòa án còn có thể hỗ trợ trọng tài ở các nội dung khác, như quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, bảo toàn chứng cứ, cấm hoặc buộc đương sự thực hiện một số hành vi nhất định...
Trọng tài thương mại với tư cách là cơ quan giải quyết tranh chấp. Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh tế thị trường, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tồn tại song song với tòa án. Trong trường hợp tranh chấp xảy ra giữa các bên thỏa thuận đưa ra giải quyết tại trọng tài và thỏa thuận này có hiệu lực mà sau đó các bên lại đưa đơn yêu cầu tòa án giải quyết thì tòa án sẽ từ chối thụ lý vụ việc không thuộc thẩm quyền của mình. Tuy nhiên xuất phát từ bản chất vốn có, trọng tài có những đặc trưng khác hẳn với tòa án thể hiện ở những điểm sau:
Trọng tài là tổ chức xã hội nghề nghiệp, không do Nhà nước thành lập mà do các trọng tài viên thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại. Do đó khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà nhân danh “quyền lực tư” để đưa ra phán quyết.
Trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên chủ thể tranh chấp đối với trọng tài, có nghĩa là chính các chủ thể tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài.
Phán quyết của trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan xét xử có thẩm quyền, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên trọng tài không phải là cơ quan xét xử nhà nước cho nên phán quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị bắt buộc với bên thứ ba. Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các chủ thể tranh chấp lựa chọn.

Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Pháp luật trọng tài của các nước trên thế giới đều ghi nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên quy định của các nước về hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu, rộng khác nhau.
Bản chất của trọng tài vụ việc
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp.
          Tính chất vụ việc hay lâm thời của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ thể giữa các bên. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động trong thời gian giải quyết tranh chấp giữa các bên, khi giải quyết xong vụ tranh chấp thì trọng tài tự chấm rứt hoạt động.
          Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng.
          Trọng tài viên được các bên tự lựa chọn hoặc chỉ định có thể là người có tên trong danh sách trọng tài hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
          Thứ ba, Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng riêng cho mình
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên lựa chọn thành lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy nhiên để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc xây dựng quy tắc tố tụng, các bên có thể lựa chọn các quy tắc phổ biến, mà thông thường là quy tắc tố tụng của trung tâm trọng tài uy tín ở trong nước và quốc tế.
Ở các nước trên thế giới trọng tài thường tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài (Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore, Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông), các hiệp hội trọng tài (Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ, Hiệp hội trọng tài Nhật Bản) hay các viện trọng tài (Viện trọng tài Stockholm – Thụy Điển)  nhưng chủ yếu là dưới dạng các trung tâm trọng tài.
          Về bản chất hầu hết trọng tài các nước trên thế giới đều tồn tại dưới hình thức trọng tài phi chính phủ, không nằm trong bộ máy nhà nước, tuy nhiên vẫn có một số khác biệt trong pháp luật trọng tài một số nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan. Ở Trung Quốc, các ủy ban trọng tài hợp đồng kinh tế là những cơ quan nhà nước trực cục quản lý hành chính công thương các cấp. Ở Thái Lan thì trực thuộc Bộ tư pháp.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và trụ sở giao dịch ổn định.
          Đặc trưng của trung tâm trọng tài này là:
          Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
          Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
+ Các trung tâm trọng tài thỏa mãn đầy đủ các điều kiện của pháp nhân được quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự năm 2005 bao gồm:
          + Được thành lập hợp pháp;
          + Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
          + Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
          + Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập
          Thứ ba, tổ chức ở các trung tâm trọng tài rất gọn nhẹ.
          Cơ cấu tổ chức của các trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Ban điều hành thì gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch của trung tâm trọng tài và có thể có tổng thư ký của trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
Bên cạnh ban điều hành thì các trung tâm trọng tài tham gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được các bên tranh chấp chọn hoặc được chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự lựa chọn lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố tụng riêng, việc lựa chọn lĩnh vực hoạt động của các trung tâm trọng tài là hoàn toàn phụ thuộc vào đội ngũ trọng tài viên. Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng, được xây dựng dựa vào cơ cấu đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với các quy định của pháp luật trọng tài thương mại.
Thứ năm, hoạt động xét xử của các trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài viên của trung tâm.
Các nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài được quy định tại Điều 4 Luật trọng tài thương mại 2010 bao gồm các nguyên tắc sau đây:
Một là, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Hai là, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
Ba là, các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
          Bốn là, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Năm là, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Các điều kiện để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được quy định cụ thể tại  Điều 5 Luật trọng tài thương mại 2010 bao gồm các điều kiện sau:
Tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài nếu các bên có thoả thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Trường hợp một bên tham gia thoả thuận trọng tài là cá nhân chết hoặc mất năng lực hành vi, thoả thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với người thừa kế hoặc người đại diện theo pháp luật của người đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Trường hợp một bên tham gia thỏa thuận trọng tài là tổ chức phải chấm dứt hoạt động, bị phá sản, giải thể, hợp nhất, sáp nhập, chia, tách hoặc chuyển đổi hình thức tổ chức, thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực đối với tổ chức tiếp nhận quyền và nghĩa vụ của tổ chức đó, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.
Việc giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên. Nếu như việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án phải trải qua rất nhiều trình tự, thủ tục, phải đợi một thời gian nhất định, để giải quyết xong một vụ tranh chấp có khi mất cả năm trời thì việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài các bên có thể tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm, phương thức giải quyết tranh chấp theo phương thức tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất cho các bên trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Điều này có thể làm giảm chi phí, thời gian và tăng hiệu quả cho quá trình giải quyết tranh chấp.
 Các bên được lựa chọn trọng tài viên phù hợp với tính chất của vụ tranh chấp, các trung tâm trọng tài hiện nay đã có số lượng trọng tài viên khá đông đảo nhiều những trọng tài viên có kỹ năng giải quyết tranh chấp vững vàng bao gồm cả kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội, đội ngũ trọng tài đã dạng ở nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau có cả trọng tài viên trong nước và trọng tài viên người nước ngoài.
Đối với các vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài các bên có thể lựa chọn luật áp dụng, hoặc trong trường hợp các bên không có thoản thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài sẽ chọn luật phù hợp nhất với vụ tranh chấp để giải quyết.
Trọng tài viên giải quyết tranh chấp một cách độc lập, vô tư, khách quan phù hợp với quy định của pháp luật. Một hội đồng trọng tài có thể gồm một hoặc ba trọng tài viên hoặc nhiều hơn nữa nếu các bên có yêu cầu. Một trọng tài viên có thể do một bên chỉ định hoặc các bên thống nhất lựa chọn. Trong bất cứ trường hợp nào thì trọng tài viên cũng phải độc lập, khách quan. Trọng tài viên là người đứng ở giữa phân giải để đi đến một phán quyết công bằng, do đó không được để mình bị ảnh hưởng bởi một bên tranh chấp (cho dù bên đó là bên đã chỉ định mình) hoặc bất kỳ bên thứ ba nào khác. Trong một số trường hợp trọng tài viên cũng có thể bị thay đổi như việc thay đối với các thành viên của Hội đồng xét xử trong tố tụng Tòa án, việc thay đổi trọng tài viên được được ghi nhận trong Khoản 1 Điều 42 Luật trọng tài thương mại năm 2010 và sẽ bị thay đổi trong các trường hợp: Trọng tài viên là người thân thích hoặc là người đại diện của một bên; Trọng tài viên có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp; Có căn cứ rõ ràng cho thấy Trọng tài viên không vô tư, khách quan; Đã là hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản, trong quy tắc tố tụng riêng của các trung tâm trọng tài cũng luôn được thể hiện vấn đề này.
  Mặt khác, khi xét xử, trọng tài viên phải đánh giá tình tiết vụ việc, chứng cứ, và luận điểm của các bên một cách ðầy ðủ, khách quan, vô tý, tránh những nhận ðịnh chủ quan, cảm tính, vô cãn cứ. Ðể đảm bảo hiệu lực của tố tụng trọng tài, trọng tài viên cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật có liên quan trong quá trình xét xử cũng như khi ra phán quyết. Nếu phán quyết của trọng tài vi phạm pháp luật thì có thể bị hủy.
Trọng tài xét xử một cách công khai, các bên được giữ bí mật về vụ tranh chấp, không ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Đây là một ưu điểm  đáng chú ý giữa trọng tài và Tòa án. Trong khi tố tụng Tòa án và bản án của tòa về nguyên tắc được công khai thì tố tụng trọng tài và bản án trọng tài lại ngược lại. Ngoại trừ chính các bên tham gia tranh chấp và hội động trọng tài cùng những bên liên quan được các bên đồng ý thì không một ai khác được tham gia vào quá trình xét xử trọng tài và quá trình xét xử trọng tài ra ngoài mà không được sự đồng ý của bên còn lại. Bên cạnh đó, mỗi bên và hội đồng trọng tài cũng không được tiết lộ bất kỳ thông tin gì về tranh chấp do vậy các thông tin về vụ tranh chấp sẽ được giữ kín, uy tín, công việc kinh doanh của các bên không bị ảnh hưởng, điều này là rất quan trọng bởi vì thông tin về vụ tranh chấp có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của các bên liên quan. Phán quyết trọng tài là bảo mật và được giữ kín, không tiết lộ cho công chúng nếu các bên không có thỏa thuận khác.
Phán quyết của trọng tài là phán quyết trung thẩm, có hiệu lực ngay, không bị kháng cáo, kháng nghị, được cơ quan thi hành án thi hành như một bản án dân sự. Trong khi các quyết định, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng nghị, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm, hoặc có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và cần phải có sự tham gia của nhiều bên khác nhau thì các phán quyết của trọng tài lại rất linh động, đơn giản mang tính chung thẩm tức là nó có giá trị pháp lý ngay đối với các bên, tính chung thẩm không chỉ có giá trị ngay đối với các đương sự mà nó còn không bị chống án hay kháng nghị…Tuy nó là một quyết định mang tính pháp lý như quyết định của Tòa án nhưng nó cũng không dặt vấn đề cưỡng chế thi hành nên khi bên nào không đồng ý với phán quyết của trọng tài cũng có thể yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy phán quyết Trọng tài khi có căn cứ cho rằng phán quyết đó là vi phạm các quy định của pháp Luật trọng tài thương mại.
Phán quyết trọng tài có hiệu lực không chỉ ở Việt Nam mà còn có hiệu lực ở trên 150 quốc gia, vùng lãnh thổ có tham gia công ước Newyork năm 1958 về thi hành phán quyết trọng tài mà Việt Nam đã tham gia công ước này năm 1995. Việc gia nhập công ước nghĩa là bất kỳ phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nước nào là thành viên công ước mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc tài sản ở Việt Nam thì đều có thể được Nhà nước Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành. Ngược lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể được công nhận và cho thi hành ở bất kỳ nước thành viên nào của công ước.
Với những gì đã phân tích trên đây ta thấy việc giải quyết các tranh chấp thương mại trong nền kinh tế thị trường hiện này bằng trọng tài thương mại là một trong những phương pháp khá hữu hiệu, thể hiện nhiều ưu điểm so với một số hình thức giải quyết tranh chấp khác mà các bên tranh chấp hoàn toàn có thể lựa chọn để giải quyết khi có tranh chấp sảy ra. 


          Kế thừa Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, Điều 20 Luật Trọng tài thương mại 2010 có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Theo đó, cá nhân có năng lực hành vi dân sự, có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế công tác từ năm năm trở lên có thể là trọng tài viên. Đặc biệt, Luật dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với các Trọng tài viên trong danh sách của mình. Tuy nhiên, về nguyên tắc, Trọng tài viên trong trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc do Trọng tài vụ việc giải quyết đều do các bên đương sự tự lựa chọn dựa trên niềm tin của họ vào tính chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn, uy tín của cá nhân đó và trong trường hợp đó thì nhà chuyên môn nào cũng có thể được các bên chọn làm Trọng tài cho vụ việc của họ. Đó là quá trình sàng lọc mang tính xã hội.
So với Pháp lệnh về trọng tài thương mại năm 2003 Luật trọng tài thương mại năm 2010 được Quốc hội ban hành ngày 17 tháng 6 năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011 cơ bản đã đáp ứng được những tồn tại hạn chế trong pháp lệnh trước đây như các quy định về tiêu chuẩn trọng tài viên đã được mở rộng đối tượng bao gồm cả cá nhân là người nước ngoài, cho phép trọng tài nước ngoài được mở chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam,  Luật cho phép các Trung tâm trọng tài được ban hành quy tắc tố tụng trọng tài phù hợp với quy định của Luật và đảm bảo đặc thù của mỗi Trung tâm để tăng thêm tính hấp dẫn đối với các bên tranh chấp. Nâng cao vị thế của Trọng tài thông qua việc cho phép Hội đồng Trọng tài được thu thập chứng cứ, triệu tập nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hạn chế nguy cơ phán quyết của Trọng tài bị Tòa án tuyên hủy bởi quy định không phù hợp của Pháp lệnh bằng việc đưa ra các trường hợp mà phán quyết trọng tài bị hủy. Luật trọng tài thương mại cũng đã thể hiện rõ nét mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ tranh chấp của các bên: Luật đã đưa ra một loạt các quy định mới nhằm xác định mối quan hệ pháp lý quan trọng này: xác định rõ Tòa án có thẩm quyền đối với hoạt động trọng tài và liệt kê 8 nội dung thẩm quyền của Toà án trong quan hệ với Trọng tài bao gồm: thu thập chứng cứ, lưu giữ chứng cứ; đăng ký phán quyết trọng tài; tuyên thoả thuận trọng tài vô hiệu; xác định thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; giải quyết và yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài; bảo đảm sự có mặt của người làm chứng; áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; chỉ định, thay đổi trọng tài viên. Quy định tại các điều luật khác liên quan đã cụ thể hoá nội dung những thẩm quyền này của Toà án. Quy định này đã khắc phục được những bất cập của Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Luật Trọng tài thương mại đã dỡ bỏ hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003 về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thương mại của Trọng tài thông qua việc mở rộng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài tới nhiều loại tranh chấp liên quan đến quyền và lợi ích của các bên (Điều 2). Đây là một trong những điểm mới quan trọng nhất của Luật Trọng tài thương mại so so với Pháp lệnh Trọng tài thương mại và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn sử dụng Trọng tài của các nước trên thế giới.
Đối với các nước trên thế giới việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài đã rất phổ biến bởi lẽ đây là phương pháp giải quyết nhanh chóng, mềm dẻo, linh hoạt, giúp cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư giảm nhiều thời gian, công sức chi phí cho việc giải quyết tranh chấp của mình đảm bảo quyền tự định đoạt của các bên. Ở Việt Nam quốc hội đã ban hành Luật trọng tài thương mại, theo đó luật này ghi nhận chủ chương mở các hình thức giải quyết trong tranh chấp, các hoạt động trong kinh doanh, thương mại và một số tranh chấp dân sự khác, tuy nhiên hình thức này lại chưa được các bên sử dụng nhiều so với lựa chọn bằng hình thức bằng tòa án.
Thực trạng, vấn đề giải quyết tranh chấp thương mại thông qua hình thức trọng tài ở Việt Nam hiện nay chưa được như mong muốn, chúng ta đã ban hành Luật trọng tài thương mại và có hiệu lực từ ngày…nguyên nhân là do các trung tâm trọng tài vẫn chưa nhận được nhiều các tranh chấp, hiện nay chúng ta có các trung tâm trọng tài thương mại như: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam 9VIAC), Trung tâm trọng tài thương mại Quốc tế Á Châu (ACIAC), Trung tâm trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT), Trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ, Trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Thái Bình Dương (PIAC), Trung tâm trọng tài thương mại tài chính ngân hàng và Trung tâm trọng tài thương mại tài chính. Tổ chức lớn nhất hiện nay là VIAC đóng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong năm 2013 cũng chỉ giải quyết 99 vụ , còn nhiều các trung tâm trọng tài hiện nay nhận được rất it vụ, thậm chí còn không nhận được vụ nào trên phạm vi cả nước trong năm 2013 các trung tâm trọng tài mới chỉ giải quyết được 360 vụ,  trong khi các vụ án tranh chấp tại Tòa án lại rất nhiều, chỉ tính riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội theo Báo cáo kết quả công tác năm 2013 và nhiêm vụ công tác năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phục vụ ký họp thứ 8 của Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV (số liệu tính từ ngày 01/10/2013 đến ngày 30/9/2014)  thì các Tòa án trên địa bàn thành phố đã thụ lý 25.996 vụ án các loại và đã giải quyết 25.139  vụ án trong đó các vụ án về kinh doanh thương mại là 1.424 vụ, giải quyết 1.284 vụ, trên phạm vi cả nước theo số liệu thống kê số lượng án của Tòa án nhân dân tối cao trong năm 2013 Tóa án đã thụ lý là 332.944 vụ án các loại trong đó số vụ án về kinh tế là 14.767 vụ.  Như vậy việc giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài nó chưa phản ánh đúng các tranh chấp phát sinh trong cộng đồng các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, số lượng các vụ án giải quyết tại các Tòa án là rất cao, tuy nhiên tại các trung tâm trọng tài thương mại lại rất it nên nó không phản ánh đúng tình hình các tranh chấp hiện nay đây là một điều rất đáng tiếc bởi các trung tâm trọng tài là một cách phát huy được tối đa quyền lợi của các bên, các bên có quyền tự do thỏa thuận lựa chọn hình thức trọng tài, địa điểm trọng tài, các trọng tài viên, trong các vụ án có tranh chấp nước ngoài thì các bên cũng có thể lựa chọn được luật áp dụng, thậm chí cả địa điểm giải quyết ở nước ngoài, các vấn đề về giữ bí mật, quyết định của trọng tài mang tính chung thẩm, giải quyết nhanh, các chi phí các bên cũng có thể tự lựa chọn ở mức vừa phải.
Hiện nay số lượng các trọng tài viên của các trung tâm trọng tài đã được nâng lên đáng kể về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên số lượng này vẫn còn tương đối ít, hiện nay số lượng các trọng tài viên trên cả nước mới chỉ có 288 người [2] tuy nhiên số lượng này lại chủ yếu tập chung ở trung tâm trọng tài thương mại quốc tế Việt Nam với 151 người còn các trung tâm khác thì khá it, cùng với đó là bảy trung tâm trọng tài phân bố thưa thớt trên phạm vi cả nước bao gồm hai trung tâm có trụ sở tại Hà Nội, bốn trung tâm ở Thành phố Hồ Chí Minh và một trung tâm ở Cần Thơ đây cũng là một dào cản khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn trung tâm trọng trọng tài để giải quyết khi có tranh chấp xảy ra.
Số lượng các vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại trọng tài trong những năm qua không ngừng tăng lên trong năm 2013 các trung tâm trọng tài trên cả nước đã giải quyết 360 vụ tranh chấp. Điều này thể hiện sự quan tâm hơn nữa của các doanh nghiệp đến phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, tuy nhiên sự gia tăng các vụ tranh chấp được giải quyết tại trọng tài là không lớn nó chỉ tập chung ở một số trung tâm trọng tài còn một số trung tâm trọng tài thì giường như it có sự tiến triển chúng ta vẫn còn kém xa xo với các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực về số vụ tranh chấp được giải quyết thông qua trọng tài, biểu đồ về số vụ tranh chấp thương mại được giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2014 sau đây sẽ cho chúng ta thấy điều đó.

Biểu đồ 2.1. Thống kê số vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(Nguồn VIAC)
Việc các trung tâm trọng tài đã được thành lập từ lâu nhưng hiện nay hiệu quả, vai trò của trọng tài thương mại giường như chưa được đề cao xuất phát từ một số nguyên nhân chính sau đây:
Các doanh nghiệp thường muốn giải quyết các vụ tranh chấp thông qua Tòa án hơn là giải quyết thông qua trọng tài, họ thường tin vào phán quyết của Tòa án hơn là trọng tài mặc dù trên thực tế phán quyết của Trọng tài cùng tương đương như phán quyết của Tòa án ở thời điểm hiện tại, họ chưa tin lắm về hiệu lực thi hành các quyết định trọng tài và do họ chưa nhận biết được tính ưu việt hơn của phương thức giải quyết tranh chấp trọng tài so với phương thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, nhiều doanh nghiệp Việt Nam do không có kinh nghiệm nên rất thờ ơ hoặc không có thỏa thuận nào về việc giải quyết tranh chấp khi thương thảo hợp đồng  vì vậy khi có tranh chấp sảy ra cơ quan đầu tiên mà các bên nghĩ đến để giải quyết tranh chấp thường là Tòa án.
Nguyên nhân từ phía các cơ quan Tòa án và cơ quan thi hành án, theo quy định của phap luật Tòa án và cơ quan thi hành án có nhiệm vụ hỗ trợ cho hoạt động của trọng tài thương mại tuy nhiên trên thực tế sự hỗ trợ này còn khá khiêm tốn. “ Những nguyên nhân được nêu ra bao gồm: các hoạt động trọng tài quá ít (84,3%), Tòa án không có thời gian cho hoạt động liên quan đến trọng tài (43,1%), trọng tài viên chưa yêu cầu Tòa án hỗ trợ (43,1%) và quy định của pháp luật chưa phù hợp (35,3%), … Về cơ chế thi hành án, phần lớn cho rằng quy định pháp luật chưa phù hợp và việc chưa có quyết định trọng tài được yêu cầu thi hành là hai nguyên nhân cơ bản giải thích việc cơ quan thi hành án chưa có hoạt động hỗ trợ trọng tài.”[3]
Việc đào tạo các chuyên gia giường như vẫn chưa được chú trọng, nền trọng tài muốn phát triển được thì cần phải có đội ngũ chuyên gia kinh nghiệm, giải về chuyên môn, nghiệp vụ. Nên đưa các chuyên gia trẻ tham gia các khóa học về trọng tài, đưa đi học tại các nơi có điều kiện giảng dạy tốt hoặc cũng có thể đưa đi các nước có nền đào tạo pháp luật về trọng tài tiến tiến, hoặc mời các luật sư danh tiếng của nước ngoài cũng như Luật sư tại các hãng luật ở Việt Nam, vừa phải sử dụng được các ngoại ngữ, am hiểu pháp luật Việt Nam, am hiểu luật pháp quốc tế có thể sử dụng được tiếng Việt như vậy việc mời họ về là rất hữu ích cho trọng tài.
Từ những thực trạng và nguyên nhân trên đây cho ta thấy việc các trung tâm trọng tài đã được thành lập từ lâu, với một vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nhưng hiện nay việc giải quyết thông qua các trung tâm trọng tài là chưa được như mong muốn, vì vậy vấn đề đặt ra là phải tìm ra được những giải pháp hữu hiệu nhằm tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của trọng tài thương mại.

Cần nâng cao sự giám sát, hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài, việc hỗ trợ các trung tâm trọng tài của Tòa án vừa góp phần nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp của trọng tài mà còn góp phần giảm sức ép công việc của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại, sự hỗ trợ của Tòa án là một điều rất quan trọng không chỉ ở Việt Nam mà còn ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, mặc dù Luật trọng tài thương mại 2010 so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 đã có nhiều quy định nhằm tăng cường vai trò của trọng tài thương mại trong giải quyết tranh chấp như: cho phép Hội đồng trọng tài được thu thập chứng cư (Điều 46), triệu tập nhân chứng (Điều 47), áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời (Điều 48,49), hạn chế nguy cơ phán quyết của trọng tài bị Tòa án tuyên hủy không phù hợp của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 như quy định một bên khi không đồng ý với phán quyết của trọng tài có thể làm đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy với quy định mới của Luật trọng tài thương mại 2010 làm mất đi tính trung thẩm của phán quyết trọng tài, các nguy cơ này đã bị hạn chế tối đa khi quy định rõ các trường hợp phán quyết trọng tài bị hủy (Điều 68). Tuy nhiên, việc pháp luật quy định như vậy là chưa đủ mà muốn đạt được kết quả tôt thì sự hỗ trợ của Tòa án là rất cần thiết trong một số việc như đăng ký phán quyết trọng tài, đảm bảo sự có bặt của nhân chứng, áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu,…góp phần tạo điều kiện cho trọng tài làm việc hiệu quả.
 Các cơ quan thi hành án cần đảm bảo các phán quyết của trọng tài được thực thi trên thực tế để đảm bảo các phán quyết của trọng tài không bị hủy, tạo cơ hội cho phán quyết của trọng tài có thể sửa đổi mà không vi phạm pháp luật. Các cơ quan thi hành án cần thi hành phán quyết trọng tài một cách có hiệu quả, một số doanh nghiệp nghĩ rằng phán quyết của trọng tài là không có hiệu lực hoặc hiệu lực kém hơn phán quyết của Tòa án. Vì vậy các cơ quan thi hành án cần thi hành các phán quyết của Trọng tài, đây cũng là một thông điệp để nhắn đến cộng đồng các doanh nghiệp rằng Nhà nước sẽ đứng ra hỗ trợ và không phải băn khoăn về các phán quyết của trọng tài.
Về phía các trung tâm trọng tài khi được cho phép thành lập thì cần rút kinh nghiệm của các tổ chức khi thành lập thì thành lập một cách ồ ạt khiến cho việc kiểm soát không có hiệu quả như vậy cũng làm cho sự giám sát, hỗ trợ của phía Tòa án cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy khi thành lập thì cần xem xét kĩ càng các trung tâm nếu đủ điều kiện thì thành lập, nếu chưa đủ điều kiện thì cần xem xét lại, mới đây nhất hai trung tâm trọng tài bị thu hồi giấy phép thành lập theo Quyết     định số 2042/QĐ-BTP và quyết định số 2041/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ tư pháp ngày 27 tháng 9 năm 2013 là trung tâm trọng tài thương mại Hà Nội và trung tâm trọng tài Viễn Đông là một bài học quý giá cho các trung tâm trọng tài khác khi thành lập.
Cần nâng cao chất lượng của trọng tài viên, Làm tốt công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho trọng tài viên để tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các trung tâm trọng tài. Cùng với việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cần chú trọng đào tạo kiến thức xã hội, khả năng sử dụng kỹ thuật tiên tiến và kỹ năng thực hiện công, kết hợp đào tạo trong nước với đào tạo ở nước ngoài để tăng cường đội ngũ cán bộ phục vụ yêu cầu hội nhập quốc tế. Có thể mời những trọng tài viên thuộc các trung tâm trọng tài uy tín trên thế giới để giải quyết các vụ tranh chấp hoặc đưa trọng tài viên đến các trung tâm này nhằm học hỏi kinh nghiệm, nâng cáo kỹ năng cho trọng tài viên. Tăng cường nâng cao kỹ năng hòa giải của các trọng tài viên khi tham gia giải quyết tranh chấp, tăng khả năng duy trì mối quan hệ giữa các bên tranh chấp, giữ được tính bảo mật của vụ việc theo đúng nguyên tắc xét xử của trọng tài, không làm phương hại đến quyền và lợi ích của mỗi bên.
Các trọng tài viên cần nắm rõ kỹ năng, quy trình giải quyết tranh chấp nhất là tranh chấp quốc tế,hạn chế tối đa sự nhũng nhiễu của các trọng tài viên, hay bất cứ hành động tiêu cực nào khác dẫn đến làm ảnh hưởng đến các bên tham gia giải quyết tranh chấp tại trọng tài, các trọng tài viên khi tiến hành giải quyết tranh chấp cần thật sự công minh, tránh tình trạng nể nang do quen biết, có quan hệ tình cảm, quan hệ gia đình mà giải quyết không công bằng ảnh hưởng đến quyền lợi của bên còn lại.
Đối với các doanh nghiệp cần phải vượt qua những tư duy trước đây, để có thể lựa chọn một phương thức giải quyết tranh chấp nhanh chóng tiện lợi cho mình, mà các nước trên thế giới đã sử dụng tương đối nhiều. Hiệu quả hoạt động của trọng tài phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp, các nhà đầu tư vì vậy nâng cao nhận thức của giới doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp vẫn còn chưa mặn mà lắm với cơ chế giải quyết bằng trọng tài thương mại. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về trọng tài cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ chắc chắn sẽ khiến các doanh nghiệp có được cái nhìn khác hơn về những ưu điểm khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Đối với các trường đại học, các học viện có đào tạo chuyên ngành luật cần chú trọng, quan tâm nhiều hơn nữa đối việc đào tạo các vấn đề về trọng tài thương mại trong chương trình giảng dạy của mình, đảm bảo cho sinh viên có những kiến thức nhất định đối với các vấn đề về trọng tài thương mại. Trong tương lai những sinh viên luật này rất có thể cũng sẽ hình thành nên một đội ngũ nguồn nhân lực quan trọng để phát triển nền trọng tài.
Đối với các luật sư, các chuyên gia pháp lý đây là người có sự am hiểu các vấn đề về pháp lý rất rõ ràng nên khi tư vấn cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư cần hướng cho các bên biết về các phương thức giải quyết tranh chấp, cần nêu lên các thuận lợi, khó khăn khi lựa chọn các phương thức giải quyết tranh chấp nhất là về phương thức trọng tài để các bên lựa chọn để giải quyết khi có tranh chấp sảy ra.
Đối với các trung tâm trọng tài vấn đề chi phí khi giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì cần có một bảng chi phí hợp lý hơn, theo biểu phí của một số trung tâm trọng tài như Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam áp dụng cho các vụ tranh chấp có tố tụng trọng tài áp dụng từ ngày 24 tháng 3 năm 2014 thì: Giả sử khi các bên muốn giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài với giá trị của vụ tranh chấp là 2 tỷ đồng thì phí trọng tài sẽ là 118000000 (một trăm mười tám triệu đồng), trong khi đó cũng một vụ tranh chấp có giá trị hợp đồng tương đương thì khi giải quyết thông qua Tòa án thì mức án phí mà các bên phải nộp là 72000000 ( bảy mươi hai triệu đồng) một con số khá chênh lệch so với khi giải quyết thông qua trọng tài, đây cũng là một vấn đề mà các doanh nghiệp, các nhà đầu tư rất quan tâm khi lựa chọn hình thức giải quyết khi có tranh chấp xảy ra. Vì vậy các Trung tâm trọng tài cần phải xây dựng một biểu phí thích hợp tạo điều kiện cho các bên khi tiến hành giải quyết tại trọng tài.
  

Đề tài đã tập chung nghiên cứu được các vấn đề lý luận về hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại thông qua các trung tâm trọng tài qua đó đã nêu lên được thực trạng hoạt động và tìm ra một số nguyên nhân và từ đó đưa ra được một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của các trung tâm trọng tài. Hy vọng cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước hiện nay việc giải quyết các tranh chấp thương mại thông qua trọng tài sẽ ngày được các bên biết đến và sử dụng nhiều hơn và xem đây là một trong những hình thức giải quyết hữu hiệu nhất bên cạnh Tòa án để đáp ứng nguyện vọng của các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, giảm thiểu số vụ án mà các Tòa án phải giải quyết hàng năm qua đó tăng cường vai trò của các trung tâm trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại tiến tới hội nhập, cạnh tranh được với các trung tâm của các nước, các vùng lãnh thổ có nền trọng tài phát triển như Hoa Kỳ, Singapore, Trung Quốc, Hồng Kông…




[1]     Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại, Nxb công an nhân dân (2012);
[2]     Luật trọng tài thương mại 2010, Nxb Lao động;
[3]     Bộ tư pháp, Đặc sản tuyên truyền luật trọng tài thương mại. Số 7/2013;
[4]     Bộ Tư pháp, Những điểm mới cơ bản của Luật Trọng tài thương mại, (2010);
[5]     Tòa án nhân dân tối cao, thống kê lượng án, toaan.gov.vn;
[6]     Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Báo cáo kết quả công tác năm 2013 và nhiêm vụ công tác năm 2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phục vụ kỳ họp thứ 8 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội khóa XIV.
[7]     Hội luật gia Việt Nam, Báo cáo tổng kết thi hành pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, (2009);
[8]     Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam, Thống kê số vụ tranh chấp tại VIAC từ 1993 đến 2014, (2015);
[9]     Phan Thông Anh, Tại sao các doanh nghiệp Việt Nam không “mặn mà” với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại bằng trọng tài?, (2009)
[10]   Vũ Ánh Dương , Dự án Luật trọng tài thương mại và sự tiếp cận các chuẩn mực Quốc tế, Nghiên cứu lập pháp số 14(151),tháng 7/2009;
[11]   Bạch Thị Lệ Thoa, Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và cơ chế hỗ trợ của toà án, Nghiên cứu lập phap số 151, tháng 7/2009;
[12]   Trần Thị Tường Vân, Hồ Đức Thảo, Nguyễn Thế Đức Tâm, Ngô Nguyễn Thảo Vy, Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại trên hành chình hội nhập và phát triển, Hội nghị khoa học trẻ ĐHQG-HCM lần 1.


[1] Theo bài viết “Đặc sản tuyên truyền luật trọng tài thương mại”, Bộ tư pháp
[2] Theo báo cáo số 15/BC-BTP của Bộ tư pháp, ngày 20 tháng 01 năm 2014
[3] Hội Luật gia Việt Nam, Báo cáo tổng kết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại 2003, (2009) 
MỤC LỤC
Trang

Nguyễn Văn Công-Khoa Luật- Đại học Vinh

No comments:

Post a Comment

FlatBook

Lorem ipsum dolor sit amet, consectetur adipiscing elit. Vestibulum rhoncus vehicula tortor, vel cursus elit. Donec nec nisl felis. Pellentesque ultrices sem sit amet eros interdum, id elementum nisi ermentum.Vestibulum rhoncus vehicula tortor, vel cursus elit. Donec nec nisl felis. Pellentesque ultrices sem sit amet eros interdum, id elementum nisi fermentum.




Comments

Contact Us

Name

Email *

Message *