Tác phẩm: Những kẻ xuất chúng (Tiếp phần I)
C H Ư Ơ N G 3
Tác giả: Malcolm Gladwell
Người dịch: Diệu Ngọc
Lời đề từ: Trương Gia Bình (Chủ tịch Tập đoàn FPT)
Lời đề từ: Trương Gia Bình (Chủ tịch Tập đoàn FPT)
C H Ư Ơ N G 3
Mối phiền phức với các thiên tài, Phần I
"Biết về chỉ số IQ của một cậu bé cũng chẳng giúp ích gì mấy
nếu bạn phải đối mặt với một nhóm những cậu bé thông minh"
Số thứ Năm của loạt chương trình trò chơi truyền hình Mỹ mang tên Đấu trường 100 (1 vs. 100) năm 2008 đã đón chào vị khách đặc biệt của mình - một người đàn ông có tên Christopher Langan.
Đấu trường 100 là một trong rất nhiều chương trình truyền hình bung nở theo gót thành công mang tính hiện tượng của game show Ai là triệu phú (Who Wants to Be a Millionaire). Trong chương trình có một lô cố định gồm một trăm khán giả bình thường đóng vai "đám đông" (mob). Mỗi tuần, họ đọ trí thông minh với một khách mời đặc biệt. Tiền thưởng lên tới một triệu đô-la. Khách mời cần phải đủ thông thái để trả lời chính xác nhiều câu hỏi hơn một trăm đối thủ của anh ta/cô ta - và với tiêu chuẩn ấy, có vẻ chẳng mấy người có điều kiện xuất sắc như Christopher Langan.
"Đêm nay đám đông khán giả sẽ phải đối mặt với cuộc đấu cam go nhất từ trước tới nay," lời người dẫn chương trình bắt đầu vang lên. "Đụng độ Chris Langan - được nhiều người mệnh danh là nhân vật thông minh nhất nước Mỹ." Máy quay quét chậm qua một người đàn ông bè bè, vạm vỡ ở lứa tuổi ngũ tuần. "Một người bình thường có chỉ số IQ khoảng 100," giọng thuyết minh tiếp tục. "Einstein là một trăm năm mươi. Chris có chỉ số IQ ở mức một trăm chín mươi lăm. Hiện giờ anh đang tập trung bộ não cỡ bự của mình vào một lý thuyết về vũ trụ. Nhưng liệu hộp sọ ngoại cỡ của anh có đủ hạ gục đám đông khán giả để giành được một triệu đô-la hay không? Hãy tìm câu trả lời ngay bây giờ trong chương trình Đấu trường 100”.
Langan bước lên khán đài trong tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt.
"Anh không nghĩ là anh cần phải có trình độ học vấn cao để chơi tốt trong chương trình Đấu trường 100 sao?" người dẫn chương trình Bob Saget hỏi Chris. Saget nhìn vào Langan đầy tò mò, như thể Chris giống một kiểu vật mẫu trong phòng thí nghiệm vậy.
"Thực lòng mà nói, tôi nghĩ đó có thể là một trở ngại," Langan đáp lời. Anh có một giọng nói thâm trầm, thản nhiên. "Sở hữu chỉ số IQ cao, bạn có xu hướng chuyên biệt hóa, tư duy sâu. Bạn bỏ qua những chi tiết lặt vặt. Nhưng giờ đây tôi phải đối mặt với những khán giả này" - anh liếc nhìn đám đông, vẻ hài hước lóe lên trong mắt hé lộ rằng anh cảm thấy tất cả những gì đang diễn ra nực cười tới mức nào - "Tôi nghĩ là tôi sẽ chơi tốt."
Suốt trong thập kỉ trước đó, Chris Langan đã gặt hái được thứ danh tiếng kỳ lạ. Anh trở thành gương mặt thiên tài của công chúng trong đời sống Mỹ, một trong Những kẻ xuất chúng. Anh nhận được lời mời từ các chương trình tin tức và được đưa tiểu sử trên các tờ tạp chí, anh trở thành chủ đề trong một phim tài liệu thực hiện bởi nhà làm phim Errol Morris, tất cả chỉ bởi một não bộ bất ngờ thách thức mọi mô tả thông thường.
Chương trình tin tức truyền hình 20/20 có lần đã mời một chuyên gia tâm lý học thần kinh đưa ra cho Langan một bài trắc nhiệm IQ riêng biệt bởi điểm số của Langan thực sự vượt khỏi mọi bảng biểu đánh giá - quá cao để có thể đo đạc chính xác. Một lần khác, Langan thực hiện một bài kiểm tra IQ được thiết kế riêng cho những người quá thông minh trong những bài kiểm tra IQ thông thường. Anh trả lời đúng tất cả chỉ trừ một câu hỏi.7 Biết nói hồi mới sáu tháng tuổi. Khi lên ba, Langan nghe radio vào các ngày Chủ nhật khi phát thanh viên đọc to những câu chuyện rẻ tiền, thì cậu cứ thế đọc theo một mình cho đến lúc tự dạy mình biết đọc. Lúc năm tuổi, Langan bắt đầu hỏi ông mình về sự tồn tại của Chúa trời - và đã rất thất vọng với những câu trả lời nhận được.
Bài kiểm tra siêu IQ được sáng tạo bởi Ronald K. Hoeflin - bản thân ông cũng là một người với chỉ số IQ cao bất thường. Dưới đây là một câu hỏi mẫu, trích từ phần Từ vựng tương tự. "Teeth is to Hen as Nest is to...?"…
Ở trường, Langan có thể bước vào một giờ kiểm tra của lớp ngoại ngữ mà không cần phải học hành gì trước đó, và nếu có được hai hay ba phút trước khi giáo viên vào lớp, anh có thể lướt qua sách giáo khoa và hoàn thành xuất sắc bài kiểm tra. Vào tuổi thiếu niên, trong khi làm việc như một công nhân nông trường, anh bắt đầu mở rộng việc tìm hiểu các khái niệm của lĩnh vực vật lý lý thuyết. Đến tuổi mười sáu, anh tự mình nghiền ngẫm một kiệt tác uyên thâm nổi tiếng của Bertrand Russell và Alfred North Whitehead - Nguyên lý Toán học (Principia Mathematica). Anh đạt được kết quả hoàn hảo trong kỳ thi SAT8 dù anh ngủ quên một lúc trong giờ thi.
"Chris làm toán suốt một tiếng đồng hồ," cậu em trai tên Mark nói về thói quen mùa hè của Langan hồi trung học. "Rồi anh ấy học tiếng Pháp một tiếng. Rồi học tiếng Nga một tiếng. Rồi anh ấy đọc triết học. Chris cứ làm thế đều đặn, hàng ngày."
Một người anh em khác của Langan, Jeff thì kể "Bạn biết không, khi Christopher mười bốn, mười lăm tuổi, anh ấy vẽ vời mọi thứ cho vui, và tác phẩm thì trông cứ như một bức ảnh vậy. Mười lăm tuổi, anh ấy có thể khớp với ngôi sao nhạc Rock Jimi Hendrix từng nhịp một trên cây guitar. Boom. Boom. Boom. Một nửa thời gian Christopher không hề đến trường. Anh chỉ có mặt vào các giờ kiểm tra và họ chẳng thể bắt bẻ gì về việc đó được. Đối với chúng tôi, điều đó thật vui nhộn. Chris có thể tóm lược
SAT (Viết tắt của Scholastic Aptitute Test) là một trong những kỳ thi chuẩn hóa cho việc đăng ký vào một số trường đại học tại Hoa Kỳ.đống giáo trình ngang với cả một học kỳ chỉ trong hai ngày, tập trung vào bất cứ thứ gì anh ấy phải để ý đến, rồi sau đó quay trở lại với những công việc anh ấy đang làm dở trước đó ."9
Trong cuộc chơi Đấu trường 100, Langan thật đĩnh đạc và tự tin. Giọng anh trầm sâu. Đôi mắt nhỏ và sáng. Anh không lòng vòng về các chủ đề, tìm ra ngay cụm từ đúng.
Để hiểu rõ hơn về quá trình trưởng thành của Chris Langan, hãy thử xem xét miêu tả dưới đây về một đứa trẻ có tên là "L." người sở hữu IQ ở mức 200 hệt như Chris Langan vậy. Thông tin đó được dẫn ra từ một công trình của Leta Stetter Hollingworth - một trong những nhà tâm lý học đầu tiên nghiên cứu về những trẻ em tài năng xuất chúng. Như miêu tả đã thể hiện rất rõ ràng, mức IQ trên 200 là rất rất cao. "Sự uyên bác của cậu L. trẻ tuổi rất đáng ngạc nhiên. Đam mê của em đối với tính chính xác học thuật và sự triệt để đã định ra một tiêu chuẩn rất cao đối với việc hoàn thành một nhiệm vụ nào đó. Cậu bé tương đối cao lớn, khỏe mạnh và gây ấn tượng, cậu được đặt biệt danh một cách trìu mến là "Giáo sư". Thái độ và năng lực của cậu bé được tất cả bạn học và giáo viên trân trọng. Cậu thường được phép lên giảng bài (kéo dài khoảng một tiếng đồng hồ) về một chủ đề đặc biệt nào đó ví như lịch sử của đồng hồ, các lý thuyết cổ xưa về cấu trúc động cơ, toán học và lịch sử. Cậu lắp dựng nên từ những mẩu đầu thừa đuôi thẹo (ví như các lõi cuốn của máy đánh chữ) một thiết bị kiểu con lắc để minh họa cho một số nguyên lý về phép đo thời gian, và chiếc đồng hồ này được lắp ráp ngay trước lớp trong giờ bài đọc thêm về "Thời gian và lưu giữ thời gian" nhằm giải thích một số nguyên lý về phép đo thời gian. Những cuốn vở ghi của cậu bé chứa đầy những luận giải khoa học tuyệt diệu.
"Bất bình với cái mà cậu coi là thứ đối xử không thích đáng với chủ đề di chuyển trên mặt đất trong một bài học trên lớp mang tên 'Vận chuyển,' cậu bé đồng ý rằng thời gian quá eo hẹp để có thể miêu tả mọi thứ một cách thấu đáo. Nhưng cậu khăng khăng rằng 'chí ít thì họ cũng phải bàn đến cả lịch sử cổ đại nữa chứ.' Như một bài tập bổ trợ tự nguyện, 'cậu trưng ra những bản vẽ và cứ liệu tỉ mỉ về những lý thuyết cổ đại xung quanh các động cơ, các đầu máy.v.v...' Cậu làm tất cả những việc đó khi mới mười tuổi."
Tương tự như thế, Langan không nói ừm hay à hay sử dụng bất cứ lối xoa dịu đối thoại nào hết: các câu nói của anh cứ thế thốt ra, câu sau tiếp câu trước, lịch sự và quả quyết, hệt như các anh lính ở vị trí duyệt binh. Mọi câu hỏi Saget đặt ra với anh, Langan đều dẹp sang một bên, như thể nó chỉ là thứ gì vặt vãnh tầm phào. Khi số tiền thắng cuộc lên tới 250.000 đô-la, Langan đột nhiên thực hiện một tính toán trong đầu rằng mối nguy cơ thua trắng ở thời điểm đó to lớn hơn những lợi ích tiềm năng của việc ở lại. Bất ngờ, Langan dừng cuộc chơi. "Tôi sẽ lấy tiền," anh nói. Anh bắt tay Saget thật chặt và kết thúc - ra khỏi sân khấu khi ở đỉnh cao hệt như cách các thiên tài luôn vẫn làm - chúng ta thường nghĩ vậy.
Sau Thế Chiến, Lewis Terman - một giảng viên tâm lý học tại Đại học Stanford gặp được một cậu bé rất đáng chú ý có tên Henry Cowell. Cowell vốn được nuôi dạy trong cảnh nghèo khó và hỗn loạn. Cậu bé không theo kịp những đứa trẻ khác, và năm lên bảy tuổi cậu không được đến trường nữa. Cậu nhận việc trông nhà cho một lớp học riêng lẻ không xa khuôn viên trường Stanford, và suốt cả ngày, Cowell luôn tìm cách lẻn vào chơi cây đàn dương cầm của trường. Những giai điệu mà cậu chơi tuyệt đẹp.
Chuyên môn của Terman vốn là trắc nghiệm trí thông minh. Bản kiểm tra IQ tiêu chuẩn mà hàng triệu người trên khắp thế giới thực hiện trong năm mươi năm tiếp sau đó - có tên Stanford Binet - chính là sáng tạo của Terman. Vậy nên ông quyết định trắc nghiệm IQ của Cowell. Ông suy luận: thằng bé ắt phải thông minh lắm, và ông tin chắc về điều đó. Cowell có chỉ số IQ trên 140. Terman bị mê hoặc. Ông tự hỏi: Còn bao nhiêu viên kim cương thô chưa được khám phá như thế nữa?
Ông bắt đầu kiếm tìm những người khác. Ông tìm thấy một cô bé thuộc chữ cái từ hồi chín tháng tuổi, một bé khác đọc Dickens và Shakespeare lúc mới lên bốn. Ông còn gặp được một chàng trai bị đuổi khỏi trường luật bởi giáo viên của cậu không tin trên đời có chuyện một con người bằng xương bằng thịt lại sao chép chính xác các đoạn dài dằng dặc những phán quyết của tòa án chỉ dựa vào trí nhớ.
Đến năm 1921, Terman quyết định biến nghiên cứu về thiên tài trở thành sự nghiệp cả cuộc đời ông. Được nhận một khoản trợ cấp lớn từ Quỹ Thịnh vượng chung (Commonwealth Foundation), ông tập hợp một đội chuyên viên nghiên cứu điền dã và cử họ về các trường tiểu học tại California. Giáo viên tại các trường đó được yêu cầu tiến cử những em học sinh xuất sắc nhất trong lớp. Những học sinh ấy nhận được một bài kiểm tra trí tuệ. Các em nằm trong nhóm 10% đạt điểm số cao nhất sẽ nhận được một bài trắc nghiệm IQ, rồi những em đạt điểm số trên 130 trong bài kiểm tra ấy sẽ lại có một bài trắc nghiệm IQ thứ ba, từ một bộ kết quả ấy Terman chọn ra những em xuất sắc và thông minh nhất. Đến thời điểm Terman kết thúc điều tra, ông đã xếp loại khoảng 250.000 học sinh tiểu học và trung học, từ đó nhận diện được
1.470 trẻ em có IQ trung bình hơn 140 và cao dần tới mức 200. Nhóm thần đồng ấy dần được biết tới với tên gọi "Nhóm Mối" (Termites) và các em chính là đối tượng của một công trình về sau đã trở thành nghiên cứu tâm lý học quan trọng bậc nhất trong lịch sử.
Trong suốt phần đời còn lại, Terman trông coi những tài năng của mình hệt như gà mẹ vậy. Các em được theo dõi và kiểm tra, đo lường và phân tích. Các thành tích giáo dục được ghi lại, tình hình hôn nhân được theo sát, ốm bệnh được lập bảng kê, sức khỏe tâm lý học được dựng biểu đồ và mỗi động thái thăng tiến hay thay đổi công ăn việc làm đều được ghi chép lại đầy cẩn trọng. Terman viết cho họ các thư tiến cử công việc và đơn đăng ký chương trình sau đại học. Ông hào phóng ban phát không ngừng nghỉ những khuyên răn, dạy bảo, liên tục ghi chép phát hiện của mình vào những tập hồ sơ dày màu đỏ có tựa đề Genetic Studies of Genius (Tạm dịch: Nghiên cứu di truyền về thiên tài.)
"Không có điều gì thuộc về một cá nhân quan trọng bằng IQ của anh ta, có lẽ chỉ ngoại trừ nhân cách của anh ta mà thôi," Terman có lần đã nói vậy. Và đối với những người sở hữu mức IQ rất cao, Terman tin rằng "Chúng ta buộc phải kiếm tìm phương cách sản xuất ra các nhân vật lãnh đạo thúc đẩy tiến bộ khoa học, nghệ thuật, nhà nước, giáo dục và phúc lợi xã hội nói chung." Khi những đối tượng nghiên cứu đã cứng tuổi hơn, Terman công bố những thông tin cập nhật về quá trình của họ, ghi chép những thành công phi thường. Terman đã viết đầy bàng hoàng "Gần như tất cả các bài báo tường thuật bất kỳ sự kiện thi đấu hoặc hoạt động nào ở California có trẻ em tham gia đều xuất hiện các thành viên trong nhóm tài năng của chúng tôi trong danh sách các quán quân...." Ông lấy các mẫu bài viết của một vài đối tượng có đầu óc nghệ sỹ nhất và đưa cho các nhà phê bình văn chương đem ra so sánh với những chấp bút đầu tiên của các tác gia nổi tiếng. Họ không thể tìm ra điều gì khác biệt. Ông nói: Tất cả các dấu hiệu đều chỉ ra một nhóm người với tiềm năng trở thành "tượng đài anh hùng." Terman tin tưởng rằng Nhóm Mối của ông đã được định đoạt trở thành tầng lớp tinh hoa tương lai của nước Mỹ.
Ngày nay, rất nhiều ý tưởng của Terman vẫn duy trì vai trò trọng tâm trong cách chúng ta suy nghĩ về thành công. Các trường học có riêng chương trình dành cho "thần đồng." Những trường đại học danh giá thường đòi hỏi sinh viên phải trải qua bài kiểm tra trí tuệ (ví như bài thi SAT) trong kỳ tuyển sinh. Những tập đoàn công nghệ cao như Google hay Microsoft còn cẩn thận đo lường các năng lực có liên quan đến nhận thức của nhân viên tương lai xuất phát từ niềm tin tương tự: họ bị thuyết phục rằng những người ở đỉnh cao nhất của thang IQ sẽ có tiềm năng lớn nhất. (Hãng Microsoft vốn nức tiếng với truyền thống các ứng viên bị hỏi một lô lốc câu hỏi vốn thiết kế riêng nhằm kiểm tra trí thông minh của họ, bao gồm cả những câu kinh điển kiểu như: "Tại sao nắp cống lại tròn?" Nếu bạn không biết câu trả lời là gì, bạn không đủ thông minh để làm việc ở Microsoft đâu Câu trả lời là nắp cống tròn không thể rơi vào ống cống được, bất kể bạn xoay ngang xoay dọc ra sao. Một nắp cống vuông thành sắc cạnh lại có thể rơi: Tất cả những gì bạn có thể làm là nghiêng nó sang một bên.
Nếu tôi có trong tay quyền năng thần diệu và gợi ý sẽ tăng IQ của bạn lên 30 điểm, bạn sẽ nói Đồng ý - phải không nào? Bạn cho là điều đó sẽ giúp bạn tiến xa hơn trong thế giới này. Và khi chúng ta nghe về ai đó như Chris Langan, phản ứng trong tiềm thức của chúng ta cũng giống phản ứng trong tiềm thức của Terman khi ông gặp Henry Cowell gần một thế kỉ trước đây. Chúng ta thấy kính sợ. Các thiên tài chính là những Những kẻ xuất chúng tột cùng. Ắt hẳn chẳng có thứ gì có thể kìm chân những người như vậy.
Nhưng có thật thế không?
Tính đến lúc này trong cuốn Những kẻ xuất chúng, chúng ta đã thấy rằng thành công phi thường dính dáng đến tài năng ít hơn là cơ hội. Trong chương này, tôi muốn thử đào sâu hơn vào giải thích tại sao lại như vậy thông qua việc quan sát một mẫu hình Kẻ xuất chúng trong dạng hình thuần khiết và tinh túy nhất của nó - thiên tài. Biết bao lâu nay, chúng ta vẫn hành xử theo lối những người như Terman gợi ý khi đụng tới vấn đề thấu hiểu về tầm quan trọng của mức trí tuệ siêu việt. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, Terman đã mắc sai lầm. Ông đã sai lầm về Nhóm Mối của mình, và nếu như ông gặp phải trường hợp chàng trai trẻ Chris Langan tự tìm hiểu về Nguyên lý Toán học hồi mới mười sáu tuổi, ông cũng sẽ sai lầm về Langan với nguyên do tương tự. Terman không hiểu một Kẻ xuất chúng thực sự là như thế nào, và đó cũng là sai lầm mà chúng ta vẫn tiếp tục mắc phải tới tận ngày nay.
Một trong những bài trắc nghiệm trí tuệ được sử dụng rộng rãi nhất có tên là Raven's Progressive Matrices (Tạm dịch: Ma trận tăng tiến Raven). Nó không đòi hỏi kỹ năng ngôn ngữ hoặc dạng đặc thù nào của những kiến thức đã tích lũy được. Nó là một thứ thước đo các kỹ năng suy luận trừu tượng. Một bài trắc nghiệm Raven điển hình bao gồm bốn mươi tám câu, mỗi câu lại khó hơn câu trước đó, và IQ được tính toán dựa trên số câu trả lời chính xác.
Dưới đây là một câu hỏi, điển hình cho loại được sử dụng trong bài trắc nghiệm Raven.
Bạn nhận ra không? Tôi đoán là hầu hết các bạn đều làm được. Câu trả lời đúng là C. Nhưng giờ thì hãy thử câu này. Nó là một dạng câu hỏi thực sự khó nhằn xuất hiện ở phần cuối bài trắc nghiệm Raven.
Câu trả lời đúng là A. Tôi phải thú thực là tôi cũng không tài nào phát hiện ra, và tôi đoán là hầu hết các bạn cũng không làm được. Dù sao thì, gần như chắc chắn Chris Langan làm tốt. Khi chúng ta nói những người như Langan thật là thông minh, chúng ta có ý rằng họ sở hữu thứ trí não có thể giải được những câu đố kiểu như câu hỏi cuối cùng vừa rồi.
Bao nhiêu năm qua, một khối lượng lớn các nghiên cứu đã được thực hiện với nỗ lực xác định làm thế nào sự thể hiện của người nào đó trong một trắc nghiệm IQ kiểu như bài test Raven lại có thể chuyển thành thành công trong đời thực. Những người nằm ở mức đáy - với IQ dưới 70 - bị coi là thiểu năng trí tuệ. Mức điểm 100 là bình thường; chắc chắn bạn cần phải đạt trên mức đó để có thể xử trí với chương trình đại học. Để lọt vào và thành công với chương trình sau đại học với mức độ cạnh tranh vừa phải đồng nghĩa với việc bạn chắc chắn cần phải đạt IQ 115 là ít nhất. Nói chung, càng đạt mức cao, bạn sẽ càng được thụ hưởng giáo dục cao hơn, bạn có khả năng kiếm được nhiều tiền hơn, và - dù tin hay không - bạn cũng sẽ trường thọ hơn.
Nhưng có một cái bẫy ở đây. Mối quan hệ giữa thành công và IQ chỉ có tác dụng đến một ngưỡng nào đó mà thôi. Khi người nào đó đã đạt mức IQ vào khoảng 120 điểm, thì có thêm vài điểm IQ phụ trội nữa dường như cũng chẳng chuyển hóa thành bất cứ ưu thế nào đo đếm được trong cuộc sống thực tế. Arthur Jensen - một "người theo trào lưu chính thống IQ" đã diễn đạt như sau ở trang 113, cuốn sách Bias in Mental Testing (Tạm dịch: Khuynh hướng trong kiểm tra trí não) hồi năm 1980 của mình: "Bốn khoảng ngưỡng quan trọng bậc nhất xét về mặt xã hội và cá nhân trên thang bậc IQ chính là những ngưỡng phân định với xác suất cao giữa những người - vì mức năng lực trí não tổng thể của mình mà có thể hoặc không thể học tại một trường bình thường (IQ vào khoảng 50), có thể hoặc không thể nắm vững những chủ đề môn học truyền thống ở trường tiểu học (IQ vào khoảng 75), có thể hoặc không thể thành công với chương trình dự bị đại học/cao đẳng ở sau trung học (IQ vào khoảng 105), có thể hoặc không thể tốt nghiệp từ một trường đại học với chương trình bốn năm đã được công nhận, nhờ đó đủ tiêu chuẩn được tuyển lựa vào một chuyên ngành hoặc một chương trình sau đại học (IQ ở mức 115). Qua khỏi ngưỡng này, mức IQ trở nên không mấy quan trọng nữa xét về khía cạnh nguyện vọng nghề nghiệp thông thường hay tiêu chí đánh giá thành công. Nói như vậy không "Việc ai đó có chỉ số thông minh là 170 điểm có khả năng tư duy tốt hơn người chỉ có IQ 70 đã được minh chứng đầy đủ," nhà tâm lý học người Anh Liam Hudson đã viết, "và điều này vẫn chính xác khi mức độ so sánh gần hơn - giữa hai mức IQ 100 và 130. Nhưng mối liên quan này dường như gẫy đổ khi ai đó so sánh hai người đều có mức IQ tương đối cao... Một nhà khoa học với mức IQ 130 có nhiều khả năng giành giải Nobel tương đương một người có IQ là 180."
Điều Hudson nói chính là IQ có rất nhiều điểm giống với môn bóng rổ. Liệu một người có chiều cao khoảng một mét sáu tám có cơ hội nào thực tế để chơi bóng rổ nhà nghề không? Không chắc. Bạn cần phải cao ít nhất là mét tám hoặc mét tám ba để chơi bóng rổ ở trình độ đó, và, tất cả mọi thứ đều rất sòng phẳng, chắc chắn là một mét tám sáu hay hơn là một mét tám ba, và một mét tám chín lại tốt hơn một mét tám sáu. Nhưng vượt qua một điểm nhất định nào đó, chiều cao không còn đóng vai trò quan trọng đến thế. Một tuyển thủ với chiều cao hơn hai mét lại không chắc đã giỏi hơn ai đó thấp hơn anh ta năm phân. (Michael Jordan - tuyển thủ bóng rổ vĩ đại nhất trong lịch sử cũng chỉ cao có một mét chín tám mà thôi.) Một cầu hề có ý rằng không tồn tại khác biệt thực sự nào giữa năng lực trí não được thể hiện thông qua mức IQ 115 và 150, hay thậm chí là giữa mức 150 điểm với 180 điểm. Nhưng sự khác biệt về IQ ở phần cao hơn trên thang bậc chỉ số trí tuệ không đem lại nhiều gợi ý về cá nhân như những ngưỡng miêu tả ở phía trên, và nhìn chung, sự khác biệt (IQ) ở đây đóng vai trò ít quan trọng hơn khi tiên báo về thành công của con người nếu so với các nét cá tính và nhân phẩm." thủ bóng rổ chỉ cần đủ cao - và điều đó cũng chính xác với trí thông minh. Trí thông minh có một cái ngưỡng.
Phần giới thiệu của chương trình Đấu trường 100 đã chỉ ra rằng Einstein có IQ là 150 điểm còn Langan là 195. IQ của Langan cao hơn 30% so với Einstein. Nhưng điều đó không có nghĩa là Langan thông minh hơn Einstein 30%. Thật nực cười. Tất cả những gì chúng ta có thể nói là khi phải tư duy về những lĩnh vực thực sự phức tạp như môn vật lý, thì rõ ràng cả hai người đều đủ thông minh.
Tôi nhận ra là: ý tưởng cho rằng IQ có một ngưỡng nhất định đi ngược lại trực giác của chúng ta. Ví như, chúng ta vẫn nghĩ là những người giành giải Nobel trong các môn khoa học sẽ phải sở hữu mức IQ cao nhất có thể; rằng họ ắt hẳn là kiểu người đạt điểm số hoàn hảo trong kỳ thi tuyển sinh vào đại học, giành được tất cả các loại học bổng sẵn có, và chắc phải có bảng thành tích siêu sao ở bậc trung học tới mức họ được các trường đại học hàng đầu trong nước bứng lên bằng được.
Nhưng hãy xem hai mươi lăm người Mỹ giành được giải Nobel Y Dược gần đây nhất, bắt đầu từ năm 2007 – tốt nghiệp từ những trường đại học nào
Trường Antioch Đại học Brown Trường Berkeley
Đại học Washington
Đại học Columbia
Học viện Công nghệ Case
Học viện Công nghệ Massachusettes Caltech
Đại học Harvard Trường Hamilton Đại học Columbia Đại học Bắc Carolina Đại học DePauw
Đại học Pennsylvania Đại học Minnesota Đại học Notre Dame
Đại học Johns Hopkins
Đại học Yale
Trường Union, Kentucky
Đại học Illinois Đại học Texas Holy Cross Trường Amherst
Trường Gettysburg Trường Hunter
Không ai nói rằng bản danh sách này tiêu biểu cho những lựa chọn trường đại học, cao đẳng của những học sinh trung học giỏi nhất nước Mỹ. Yale, Columbia và MIT đều có trong danh sách, nhưng DePauw, Holy Cross và trường Gettysburg cũng góp mặt. Đây chỉ là danh sách những trường tốt mà thôi.
Vẫn cùng mạch đó, dưới đây là trường đại học của hai mươi lăm người Mỹ giành giải Nobel Hóa học gần đây nhất
Đại học New York Đại học New York Đại học Stanford
Đại học Dayton, Ohio Đại học Rollins, Florida MIT
Đại học Grinnell MIT
Đại học McGill
Học viện công nghệ Georgia
Đại học Ohio Wesleyan
Đại học Rice Trường Hope
Đại học Brigham Young
Đại học Toronto Đại học Nebraska Trường Dartmouth Đại học Harvard Đại học Berea
Đại học Augsburg
Đại học Masachusettes
Đại học Washington State
Đại học Florida
Đại học California, Riverside
Đại học Harvard
Để trở thành một người đoạt giải Nobel, đương nhiên, bạn buộc phải đủ thông minh để bước chân vào một trường đại học chí ít cũng phải ổn như Notre Dame hay Đại học Illinois. Vậy đấy.12
Đây phải chăng là một ý kiến cực đoan? Giả sử đứa con gái bé bỏng của bạn phát hiện ra rằng cháu đã được nhận vào hai trường - Đại học Harvard và Đại học Georgetown, ở Washington DC. Bạn muốn con bé vào đâu? Tôi đoán là Harvard, bởi Harvard là trường "tốt hơn". Học sinh của trường đạt điểm cao hơn 10-15% trong kỳ thi tuyển sinh.
Nhưng với những gì chúng ta được biết về trí thông minh, ý tưởng rằng các trường cũng có thể được phân hạng, như các tay đua trên đường chạy - chẳng có ý nghĩa gì hết. Sinh viên của trường Georgetown có thể không thông minh ở mức áp đảo như sinh viên của Harvard. Nhưng rõ ràng là tất cả các em đều đủ thông minh, và những người thắng giải Nobel tương lai đến từ những trường như Georgetown hệt như từ trường Harvard thôi.
Để làm rõ: Vẫn là chuyện Harvard sản sinh ra nhiều người đoạt giải Nobel hơn bất cứ trường nào khác. Cứ nhìn vào những danh sách trên. Harvard xuất hiện trong cả hai bảng, tổng cộng là ba lần. Một trường như Holy Cross chỉ xuất hiện có một lần. Nhưng chẳng phải bạn mong đợi những trường như Harvard giành được nhiều giải Nobel hơn những trường khác hay sao? Suy cho cùng, Harvard vẫn là trường giàu có, danh tiếng nhất trong lịch sử và có trong tay những sinh viên xuất sắc nhất xét trên toàn thế giới.
Nhà tâm lý học Barry Schwartz gần đây đã đề xuất rằng những trường ưu tú nên từ bỏ quy trình tuyển sinh phức tạp của mình đi và chỉ đơn giản tổ chức một cuộc xổ số cho tất cả những ai đạt trên mức ngưỡng. "Sắp xếp mọi người vào hai nhóm," Schwartz nói. "Đủ giỏi và không đủ giỏi. Những người đủ giỏi đội chung một mũ. Những ai không đủ giỏi thì bị từ chối." Schwartz thừa nhận rằng ý tưởng của ông chắc chắn không được chấp nhận. Nhưng ông hoàn toàn đúng. Như Hudson viết (hãy nhớ rằng Hudson đã thực hiện nghiên cứu của mình ở những trường nội trú dành cho nam sinh hàng đầu của Anh quốc hồi những năm 1950 và 1960), "Biết về IQ của một cậu bé cũng chẳng giúp ích gì mấy nếu bạn phải đối mặt với cả một nhóm những cậu bé thông minh."13
Để tôi đưa cho bạn một ví dụ về hiệu ứng của ngưỡng
đối với hành động. Trường luật thuộc Đại học Michigan - giống như nhiều cơ sở đào tạo danh tiếng khác Để cảm nhận rõ xem quy trình lựa chọn tại những trường thuộc nhóm Ivy League danh giá (gồm 8 cơ sở giáo dục bậc cao ưu tú nhất vùng đông nam Hoa Kỳ, trong đó có: đại học Brown, Columbia, Cornell, Yale, Harvard, Princeton, Pennsylvania, Dartmouth) nực cười đến mức nào, hãy xem xét những số liệu dưới đây. Vào năm 2008, 27.462 học sinh trung học đạt thành tích cao nhất toàn thế giới đã ứng tuyển vào Đại học Harvard. Trong số những học sinh này, có 2.500 em đạt tuyệt đối 800 điểm phần đọc hiểu và 3.300 em đạt điểm tuyệt đối phần thi toán của bài kiểm tra SAT. Hơn 3.300 em đứng đầu ở lớp cấp trung học. Bao nhiêu trong số đó được Harvard nhận vào? Chỉ khoảng 1.600, đồng nghĩa với việc họ từ chối 93 trong số 100 em ứng tuyển. Liệu có thể thực sự nói rằng một sinh viên có tư chất Harvard còn những người khác thì không, trong khi cả hai có thành tích học tập hoàn hảo y hệt nhau? Tất nhiên là không? Harvard không trung thực. Schwartz đã đúng. Trường nên mở một cuộc xổ số thì hơn.
Hoa Kỳ, đã sử dụng chính sách hành động tích cực14 đối với những thí sinh xuất thân từ hoàn cảnh thiệt thòi. Khoảng 10% tổng số sinh viên trường Michigan tuyển vào mỗi mùa thu là thành viên của các sắc tộc thiểu số, và nếu trường luật không nới lỏng rõ rệt những yêu cầu tuyển sinh đối với các sinh viên ấy - chấp nhận họ với thành tích bậc đại học cũng như điểm số của các bài kiểm tra tiêu chuẩn thấp hơn những người khác - thì tỉ lệ ước tính chỉ đạt dưới 3% mà thôi. Hơn nữa, nếu chúng ta so sánh thành tích học tập mà các sinh viên thuộc nhóm sắc tộc thiểu số và nhóm bình thường đạt được trong trường luật, chúng ta thấy rằng các sinh viên da trắng nhỉnh hơn. Chẳng có gì ngạc nhiên: nếu một nhóm nào đó có được thành tích bậc đại học và điểm số các bài kiểm tra cao hơn, gần như chắc chắn cũng sẽ có được thành tích tốt hơn ở trường luật. Đây là một lý do giải thích vì sao chương trình hành động tích cực lại gây tranh cãi đến thế. Thực ra, gần đây một cáo buộc về chương trình hành động tích cực của Đại học Michigan đã được chuyển lên Tòa án tối cao Hoa Kỳ. Với rất nhiều người, việc một cơ sở đào tạo tinh hoa lại đón vào những sinh viên kém tiêu chuẩn hơn các bạn đồng lứa thật đáng phiền lòng.
Chính sách hành động tích cực (Affirmative Action): là một chủ trương của chính quyền Mỹ, do Tổng thống Kennedy khởi xướng năm 1961, có mục đích thông qua việc áp dụng những biện pháp ưu đãi hay dành ưu tiên trong việc tuyển dụng và thăng thưởng để giúp cho những nhóm người thiểu số, đặc biệt người da màu, có cơ hội trên thực tế đạt tới vị thế bình đẳng với những người da trắng
Vài năm trước, Đại học Michigan đã quyết định quan sát kỹ càng xem các sinh viên thuộc nhóm thiểu số của trường luật sinh sống ra sao sau khi tốt nghiệp. Họ kiếm được bao nhiêu tiền? Họ tiến xa đến đâu trong công việc? Họ hài lòng tới mức nào với sự nghiệp của mình? Họ có những đóng góp gì cho xã hội và với cộng đồng? Họ giành được những thành tựu gì? Đại học Michigan xem xét tất cả những gì có thể là tiêu chí cho thành công trong cuộc đời thực. Và những gì phát hiện ra đã khiến họ ngạc nhiên.
"Chúng tôi đã tìm hiểu và rồi biết rằng các sinh viên thiểu số của mình, rất nhiều trong số đó, sống rất ổn," Richard Lempert, một trong số các tác giả tiến hành đề tài nghiên cứu của trường Michigan đã nói. "Dự tính của chúng tôi chỉ là sẽ tìm ra một nửa hoặc hai phần ba cốc nước đầy, vì cho rằng các sinh viên thiểu số hẳn sẽ không ổn bằng những bạn bè da trắng, thế mà rất nhiều người đã thực sự thành công. Kết quả thật đáng kinh ngạc. Chúng tôi phát hiện ra rằng họ chẳng kém cạnh gì. Chúng tôi không nhận ra bất kỳ sự tồn tại khác biệt ghê gớm nào."
Điều Lempert đang nói chính là chỉ qua một thước đo duy nhất mà trường luật thực sự quan tâm - các sinh viên tốt nghiệp ra sao trong cuộc sống thực - thì sinh viên thiểu số không hề bị thua kém. Họ cũng thành công hệt như những sinh viên da trắng vậy. Và tại sao? Bởi vì cho dù những chứng chỉ học tập của các sinh viên thiểu số tại trường Michigan không tốt bằng các bạn bè da trắng, chất lượng của sinh viên ở trường luật nói chung vẫn đủ cao để tất cả họ đều đứng ở mức trên ngưỡng. Họ đủ thông minh. Biết về điểm số kiểm tra của một sinh viên luật chẳng có mấy tác dụng nếu bạn đang đối mặt với cả một lớp học gồm toàn những sinh viên luật thông minh.
Hãy cùng đẩy ý tưởng về ngưỡng xa thêm một bước nữa. Nếu trí thông minh chỉ giữ vai trò quan trọng đến một điểm nút nào đó, vậy thì vượt qua điểm nút ấy, những thứ khác - những thứ không liên quan gì đến trí thông minh - sẽ phải bắt đầu thể hiện vai trò nhiều hơn. Lại giống như môn bóng rổ: một khi ai đó đã đủ cao, thì tiếp theo chúng ta sẽ bắt đầu quan tâm đến tốc độ và cảm giác trận đấu, sự lanh lẹ, kỹ năng cầm bóng và nhạy cảm ghi bàn.
Vậy thì, những yếu tố khác ấy có thể là gì đây? Thế này nhé, giả sử thay bằng việc đo chỉ số IQ của bạn, tôi sẽ đưa cho bạn một loại bài trắc nghiệm hoàn toàn khác.
Hãy viết ra tất cả các công dụng mà bạn có thể nghĩ tới cho những vật thể dưới đây:
1. Một viên gạch
2. Một cái chăn
Đây là một ví dụ cho cái gọi là "trắc nghiệm phân kì" (để đối lập với một bài trắc nghiệm kiểu Raven, đòi hỏi bạn lựa chọn qua một danh sách các khả năng và đồng quy về đúng câu trả lời chính xác). Nó đòi hỏi bạn phải sử dụng trí tưởng tượng của mình và đưa trí óc mình đi theo càng nhiều phương hướng càng tốt. Với một bài trắc nghiệm phân kì, hiển nhiên là không chỉ có một câu trả lời chính xác duy nhất. Điều mà người ra đề tìm kiếm chính là số lượng và tính độc đáo trong các câu hồi đáp của bạn. Và thứ mà bài trắc nghiệm này đo lường không phải là trí thông minh phân tích, phải là điều gì đó khác biệt sâu sắc - điều gì đó gần gụi hơn với sức sáng tạo. Các bài kiểm tra phân kì cũng thách thức chẳng kém gì so với trắc nghiệm đồng quy, và nếu bạn không tin như vậy, tôi khuyến khích bạn nên dừng lại để thử câu hỏi gạch-và-chăn ngay bây giờ.
Dưới đây là những câu trả lời cho trắc nghiệm "công dụng của các vật thể" được Liam Hudson thu thập được từ sinh viên tên Poole tại một trường trung học hàng đầu Anh quốc". Theo Poole:
(Gạch). Dùng để cướp phá cửa hiệu. Giúp cả căn nhà không bị đổ ụp. Sử dụng trong một trò chơi cò quay của Nga nếu bạn muốn có được sức mạnh ngay lập tức (gạch đi mười bước, quay lại và ném - không hành động lẩn tránh nào được phép). Để cố định một cái chăn lông vũ trên giường bằng cách đặt mỗi góc một cục gạch. Để đập vỡ những cái chai Coca-Cola hết sạch.
(Chăn). Để sử dụng trên giường. Để che đậy cuộc mây mưa lén lút trong rừng. Như một cái lều. Để tạo ra ám hiệu bằng khói. Làm thành buồm cho một con tàu, xe đẩy hai bánh hoặc xe trượt tuyết. Như một cách thay thế cho khăn bông. Như một cái bia tập ném cho người cận thị. Như một thứ để đỡ người nhảy ra từ những tòa nhà chọc trời đang cháy.
Không khó để đọc những câu trả lời của Poole và cảm nhận xem trí não của cậu hoạt động ra sao. Cậu vui nhộn. Cậu hơi nổi loạn và dâm đãng. Ở cậu có sự thính nhạy với những thứ kích thích cảm giác mạnh mẽ. Trí óc của cậu nhảy từ hình ảnh bạo lực sang tình dục, từ những người nhảy ra từ các tòa nhà chọc trời đang cháy sang những vấn đề rất thực tế, ví như làm thế nào để giữ chặt một cái chăn lông vũ trên giường. Cậu mang lại cho chúng ta ấn tượng rằng nếu cho cậu thêm mười phút nữa, cậu sẽ đưa ra thêm hai chục công dụng khác nữa.15
Bây giờ, nhằm mục đích so sánh, hãy xem xét các câu trả lời từ một sinh viên khác trong mẫu của Hudson. Tên của cậu là Florence. Hudson cho biết Florence là một nhân vật phi thường với mức IQ vào loại cao nhất trường.
(Gạch). Xây dựng các thứ, để ném.
(Chăn). Giữ ấm, dập lửa, buộc vào cây và ngủ trong đó (như một cái võng), cáng dùng tạm.
Óc tưởng tượng của Florence ở đâu? Cậu chỉ nhận diện những công dụng thông thường và phổ biến nhất của gạch và chăn rồi đơn giản là dừng lại. IQ của Florence cao hơn Poole. Nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì nhiều, bởi cả hai học sinh đều ở mức trên ngưỡng. Điều thú vị hơn là trí óc của Poole có thể nhảy từ hình ảnh bạo lực sang tình dục. Đây là các câu trả lời của một học sinh khác. Phần trả lời này có lẽ còn tốt hơn cả của Poole: "(Gạch). Phá cửa sổ để trộm đồ, xác định độ sâu của giếng khơi, sử dụng như vũ khí, như con lắc, để thực hành đẽo gọt, xây tường, chứng minh Định luật Archimedes, một phần của công trình điêu khắc trừu tượng, đồ dằn trên tàu bè, buộc nặng để ném đồ xuống sông, v.v... như một cái búa, dùng để giữ cửa mở rộng, đồ cọ chân, sử dụng gạch vụn để tôn đường, vật chêm, quả cân, chống bàn cập kênh, chặn giấy, để sưởi, bịt hang thỏ tới những người nhảy ra từ các tòa nhà chọc trời đang cháy mà không hề vấp váp gì, nhưng trí óc của Florence không thể làm thế. Giờ thì bạn nghĩ ai trong số hai sinh viên này phù hợp hơn để thực hiện loại công việc thông minh, giàu óc tưởng tượng để đoạt giải thưởng Nobel?
Đó là nguyên do thứ hai giải thích việc những người đoạt giải thưởng Nobel cũng đến từ trường Holy Cross như Harvard vậy, bởi Harvard không tuyển lựa sinh viên của mình dựa trên nền tảng họ thực hiện bài kiểm tra "các công dụng của viên gạch" tốt đến mức nào - và có lẽ trắc nghiệm "các công dụng của viên gạch" lại là thứ tiên báo hay hơn cho khả năng đoạt giải Nobel. Đó cũng là lý do thứ hai mà Trường Luật Michigan không thể tìm ra sự khác biệt giữa các em trong chương trình hành động tích cực với những cựu sinh viên khác của trường. Trở thành một luật sư thành đạt phụ thuộc vào nhiều điều hơn là IQ đơn thuần. Nó đòi hỏi phải có trí não phong phú như Poole vậy. Và các sinh viên thiểu số của trường Michigan đạt thành tích thấp hơn trong các bài trắc nghiệm đồng quy không có nghĩa là ở họ không dồi dào những đặc điểm then chốt khác.
Đây là sai lầm của Terman. Ông quá yêu chuộng một thực tế rằng Nhóm Mối của mình chiếm lĩnh những đỉnh cao tuyệt đối trên thang bậc học thức - đỉnh của đỉnh (99% của 99%) - mà không hề nhận ra rằng sự thực dường như phi thường ấy lại chẳng có ý nghĩa gì mấy.
Khi Nhóm Mối đến tuổi trưởng thành, sai lầm của Terman sẽ lộ ra rõ ràng. Một vài thần đồng của ông lớn lên và xuất bản sách, công bố các bài viết mang tính học thuật hay phát đạt trong công việc kinh doanh. Một số thì điều hành các công sở, có hai người trở thành thẩm phán tòa án tối cao bang, một thẩm phán tòa án thành phố, hai nghị sĩ bang California, một quan chức liên bang được trọng vọng. Nhưng chẳng mấy trong số các thiên tài của Terman trở thành các nhân vật nức tiếng toàn quốc. Họ có xu hướng kiếm sống tốt - nhưng không đặc biệt tốt. Phần lớn sở hữu một sự nghiệp chỉ có thể coi là bình thường, và một phần đáng ngạc nhiên trong đó cuối cùng chỉ đạt được thứ sự nghiệp mà Terman coi là thất bại. Cũng không có bất cứ ai đoạt giải Nobel trong nhóm thiên tài mà Terman đã tuyển lựa thấu đáo ấy. Những chuyên viên nghiên cứu điền dã của Terman thực ra đã từng kiểm tra hai học sinh sơ học mà sau này đã giành được giải Nobel - William Shockley và Luis Alvarez - và đã loại bỏ cả hai người này. Chỉ bởi IQ của họ không đủ cao.
Trong một bài báo với giọng điệu chỉ trích gay gắt, nhà xã hội học Pitirim Sorokin đã chỉ ra rằng nếu Terman chỉ đơn giản gom vào một nhóm trẻ em được lựa chọn ngẫu nhiên từ những hoàn cảnh gia đình tương tự như Nhóm Mối - và bỏ qua chuyện kiểm tra chỉ số IQ - chắc ông rút cục cũng sẽ có trong tay một nhóm làm được hầu hết những việc ấn tượng như nhóm thiên tài mà ông dụng công chọn lựa. "Không suy rộng những tưởng tượng hay các tiêu chuẩn về thiên tài," Sorokin kết luận, "thì đây đơn thuần là ‘nhóm tài năng’ gồm toàn những người ‘tài năng’, vậy thôi.” Cho đến lúc Terman công bố tập thứ tư của Nghiên cứu di truyền về thiên tài, từ "thiên tài" đã hoàn toàn biến mất. "Chúng tôi đã nhận thấy," Terman kết luận, với thái độ còn hơn cả thất vọng, "rằng trí tuệ và thành công không hề tương ứng với nhau."
Nói cách khác, điều tôi nói với bạn ngay từ đầu chương này về trí thông minh siêu phàm của Chris Langan chẳng có mấy tác dụng nếu chúng ta muốn hiểu về những cơ hội thành công trong cuộc đời thực. Đúng thế, Chris Langan là một người với trí não có một không hai cùng khả năng tự tìm hiểu về Nguyên lý Toán học hồi mới mười sáu tuổi. Và cũng đúng, các câu trả lời của anh cứ thế thốt ra, câu sau tiếp câu trước, lịch sự và quả quyết, hệt như các anh lính ở vị trí duyệt binh. Như thế thì đã sao chứ? Nếu chúng ta muốn hiểu về khả năng trở thành một Kẻ xuất chúng thực sự của Chris Langan, chúng ta phải biết nhiều hơn thế về anh.
CHƯƠNG 4
Mối phiền phức với các thiên tài, Phần II
"Sau những cuộc đàm phán kéo dài, người ta đồng tình rằng Robert sẽ phải chịu quản chế"
Mẹ của Chris Langan xuất thân từ San Francisco và vốn bị gia đình ghẻ lạnh. Bà sinh ra bốn đứa con, mỗi đứa có một ông bố khác nhau. Chris là con cả. Cha anh mất tích trước khi Chris chào đời và có tin đồn rằng ông đã chết ở Mexico. Người chồng thứ hai của bà bị sát hại. Người chồng thứ ba tự vẫn. Người chồng thứ tư là một anh kí giả thất thế tên Jack Langan.
"Tới tận giờ tôi cũng chưa từng gặp một ai mà hồi thơ ấu gia đình lại nghèo khổ tới nỗi như nhà chúng tôi," Chris Langan nói. "Chúng tôi không có nổi hai cái tất lành cùng một đôi. Giày nham nhở. Quần áo thủng lỗ chỗ. Chúng tôi chỉ có độc một bộ quần áo. Tôi vẫn nhớ tôi với các em vào nhà tắm để giặt bộ quần áo duy nhất. Lúc ấy bọn tôi trần nồng nỗng bởi chẳng có cái gì khác để mặc."
Jack Langan sau đó triền miên khướt khơ rượu chè và rồi mất tích. Ông ta vẫn thường khóa chặt tủ chạn để mấy đứa bé không thể lấy trộm thức ăn. Ông ta dùng roi da để trấn áp và sai khiến lũ trẻ. Ông ta kiếm được việc rồi lại thất nghiệp, rồi chuyển cả nhà đến thị trấn khác. Có mùa hè cả nhà ở trong một căn lều rách tại vùng dành riêng cho người Da đỏ, gắng gượng qua ngày bằng bơ lạc với bột ngô chính phủ trợ cấp. Có thời gian, họ sống ở thị trấn Virginia, bang Nevada. "Chỉ có mỗi một tay cảnh sát trong cả thị trấn, và khi bọn đầu trộm đuôi cướp tràn đến, ông ta trốn biệt ở phía sau văn phòng," Mark Langan nhớ lại. "Tôi vẫn nhớ có một quán bar ở đó tên là Bucket of Blood Saloon."
Khi bọn trẻ đang tuổi đi học, cả nhà lại chuyển tới Bozeman, bang Montana. Một cậu em của Chris ở lại gia đình đỡ đầu còn những đứa trẻ khác đến trường giáo dưỡng.
"Tôi không nghĩ là trường học đã có lúc nào đó biết được Christopher có tài năng thiên bẩm," cậu em Jeff nói. "Chắc như đinh đóng cột là anh ấy không thể hiện ra chút gì. Đấy là ở Bozeman. Nó chẳng giống bây giờ chút nào hết. Khi chúng tôi lớn lên ở đó, nó vẫn chỉ là một thị trấn bé xíu và quê mùa. Ở đó chúng tôi không được đối xử tử tế mấy. Họ coi cả nhà tôi chỉ là một lũ ăn bám." Để bảo vệ bản thân mình và các em, Chris bắt đầu tập nâng tạ. Một hôm, lúc ấy Chris 14 tuổi, Jack Langan lại gây gổ và đánh đập bọn nhỏ. Ông ta vẫn thường như thế. Chris hạ gục ông ta ngay lập tức. Jack bỏ đi và không bao giờ trở lại nữa. Sau khi tốt nghiệp trung học, Chris nhận được hai học bổng toàn phần, của Đại học Reed ở Oregon và của Đại học Chicago. Anh đã chọn Reed.
"Đó là một sai lầm lớn," Chris nhớ lại. "Tôi rơi vào tình trạng sốc văn hóa thực sự. Tôi chỉ là một thằng bé đầu húi cua vốn làm việc chăn nuôi gia súc trong mùa hè ở Montana, thế mà tôi lại ở đó, giữa cả một đám trẻ thành phố tóc dài và hầu hết chúng đến từ New York. Lũ trẻ này có phong cách khác hẳn với lối tôi vốn quen. Tôi không thể xen vào lời nào trong giờ học. Chúng nó rất tọc mạch. Lúc nào cũng hỏi han lia lịa. Tôi bị nhồi vào một phòng ngủ tập thể. Có bốn đứa tất cả, ba đứa kia lối sống hoàn toàn khác với tôi. Chúng nó hút canabis (một loạt thuốc phiện-ND). Chúng nó còn dẫn cả bạn gái về phòng. Tôi chưa từng hút canabis bao giờ cả. Nên về cơ bản, tôi bắt đầu trốn biệt trong thư viện."
Anh kể tiếp: "Thế rồi tôi để lỡ mất học bổng... Đáng ra mẹ tôi phải điền vào bản khai tình trạng tài chính để xin gia hạn học bổng nhưng bà lại lơ là việc ấy. Mẹ tôi rất lúng túng với các yêu cầu kiểu như vậy. Đến khi phát hiện ra học bổng không được gia hạn, tôi đến văn phòng trường để hỏi lý do. Họ nói với tôi là, à, chẳng có ai gửi cho họ bản khai tình trạng tài chính hết nên họ đã cấp phát xong tiền học bổng rồi, hết sạch rồi, tôi không còn học bổng ở đây nữa. Cái kiểu ở đó là vậy. Đơn giản là họ không thèm để ý. Họ không thèm đếm xỉa gì đến sinh viên của họ cả. Không có khuyên răn, không có tư vấn, chẳng gì hết."
Chris rời khỏi Reed trước đợt thi cuối kỳ, mang theo mình một bảng toàn điểm chữ F (điểm kém). Trong học kỳ đầu tiên, cậu đạt toàn điểm A. Cậu trở lại Bozeman và làm việc trong ngành xây dựng, rồi làm việc như một lính cứu hỏa bảo vệ rừng trong suốt một năm rưỡi. Tiếp đó cậu vào học ở trường của bang Montana.
"Tôi theo học lớp toán và triết học," anh nhắc chuyện cũ. "Và rồi trong kì học mùa đông, khi tôi lái xe cách thị trấn tới mười ba dặm, trên đường Beach Hill, hộp truyền động của xe bị long ra. Lúc tôi đi vắng hồi mùa hè, mấy đứa em đã sử dụng xe. Chúng nó làm việc ở công ty đường sắt và đã lái xe trên đường ray. Tôi không có tiền để sửa xe. Tôi tìm đến giáo viên hướng dẫn và cả chủ nhiệm khoa nữa để trình bày về việc rắc rối mình đang vướng phải. Em có tiết học vào bảy rưỡi sáng và tám rưỡi sáng, nhưng hộp truyền động của chiếc xe bị long ra. Vì thế, nếu thầy có thể làm ơn chuyển em xuống buổi học chiều của các lớp ấy, em sẽ rất cảm kích. Có một người hàng xóm là chủ trại gia súc sẽ ghé qua đón em vào mười một giờ hàng ngày. Thầy giáo hướng dẫn của tôi là người đàn ông ngoại hình cao bồi với bộ râu gọng, vận chiếc áo vét vải tuýt trong ảnh này đây. Ông ta nói, "Này con trai, sau khi xem bảng điểm của cậu ở Trường Reed, tôi cho rằng giờ hẳn cậu đã ngộ ra việc mọi người buộc phải chấp nhận hi sinh để có được ít nhiều kiến thức. Đề nghị của cậu không thể chấp nhận được.' Tôi đến gặp chủ nhiệm khoa. Kết quả vẫn vậy."
Giọng anh đanh lại. Anh đang kể lại những chuyện đã xảy ra hơn ba mươi năm trước, nhưng ký ức vẫn khiến anh giận dữ. "Lúc ấy tôi nhận ra rằng, tôi ở đây, giữa mùa đông Montana, quăng mình bươn chải kiếm tiền hòng tìm mọi cách quay lại trường. Tôi tình nguyện đi nhờ xe vào thị trấn hàng ngày, làm bất cứ thứ gì có thể, chỉ để đến được trường. Vậy mà họ chẳng bằng lòng làm điều gì vì tôi hết. Thật điên tiết. Đến lúc ấy tôi quyết định rằng tôi có thể xoay xỏa mà không cần đến hệ thống giáo dục bậc cao. Thậm chí nếu tôi không thể làm gì được, thì cả cái hệ thống đó đã tàn tệ quá sức với tôi đến mức tôi sẽ không gắng gượng thêm chút nào nữa. Thế là tôi bỏ học, đơn giản vậy thôi."
Những trải nghiệm của Langan ở Đại học Reed và Montana đóng vai trò bước ngoặt trong cuộc đời anh. Khi còn là một đứa trẻ, anh đã luôn ước mơ trở thành một viện sỹ. Đáng lẽ ra anh đã có được học vị Tiến sỹ; các trường đại học chính là những cơ sở giáo dục chủ yếu được xây dựng nên để dành cho những người có niềm hứng thú và lòng ham hiểu biết sâu sắc với tri thức như anh vậy. "Khi anh ấy vào được đại học, tôi đã nghĩ rồi anh ấy sẽ thành công, tôi thực lòng nghĩ thế," cậu em Mark nói. "Tôi nghĩ bằng cách nào đấy anh ấy sẽ tìm ra được một ngách hẹp. Vì thế, lúc anh ấy rời khỏi trường tôi hoàn toàn không hiểu nổi."
Không một mảnh bằng trong tay, Langan không biết nên làm gì. Anh làm việc ở công trường xây dựng. Một mùa đông giá lạnh anh làm việc trên con thuyền mò trai sò ở Long Island. Anh nhận việc vặt trong nhà máy rồi làm nhân viên quèn trong ngành dân chính, cuối cùng còn trở thành một tay bảo kê một quán bar ở Long Island. Đó là công việc chủ yếu trong hầu hết những năm tháng trưởng thành của anh. Dù vậy, anh vẫn tiếp tục đọc sâu về triết học, toán học và anh miệt mài viết một chuyên luận mà anh gọi là CTMU - Cognitive Theoretic Model of the Universe. (Tạm dịch: Mô hình lý thuyết liên quan đến nhận thức về vũ trụ). Nhưng do không có bằng cấp chứng chỉ đại học, anh không có chút hi vọng gì công bố công trình của mình trên một tạp chí chuyên ngành.
"Tôi chỉ là một gã tay mơ mới trải qua một năm rưỡi ở trường đại học," anh nói, với một cái nhún vai. "Và lúc nào đó khi chuyên luận này lọt vào tầm chú ý của tổng biên tập, khi ông ta lấy bài viết và gửi cho những người thẩm định, họ sẽ cố gắng tìm kiếm và tra cứu về tôi nhưng chắc chắn sẽ chẳng tìm thấy tôi đâu. Rồi họ sẽ nói rằng, tay này chỉ có năm rưỡi học đại học. Làm sao anh ta biết anh ta đang viết về cái gì chứ?"
Đó là một câu chuyện đau lòng. Tôi hỏi Langan, giả định Đại học Harvard đưa ra đề nghị một công việc với anh, liệu rằng anh có nhận. "À, một câu hỏi khó đấy," anh trả lời. "Đương nhiên, là một giảng viên ở Harvard thì tôi sẽ có giá trị. Những ý kiến của tôi sẽ có trọng lượng, tôi có thể sử dụng vị thế và tư cách của mình ở Harvard để truyền bá ý tưởng. Một cơ sở đào tạo như thế chính là một nguồn năng lượng tri thức dồi dào, và nếu tôi ở một nơi như vậy, tôi có thể hấp thụ mọi rung động tinh tế nhất của bầu không khí học thuật đó." Tôi bỗng nhiên cảm nhận rõ rệt rằng Chris cô độc biết bao. Anh ở đây, một con người với khát khao học hành vô tận, thế mà trong hầu hết phần đời trưởng thành lại bị ép buộc sống trong cảnh cô lập về tri thức. "Trong một năm rưỡi học đại học, tôi thậm chí còn cảm nhận được thứ năng lượng tri thức ấy," anh nói, gần như là tiếc nuối buồn bã. "Những ý tưởng có sẵn trong bầu không khí. Đó là một nơi chốn đầy kích thích."
"Nhưng mặt khác," anh tiếp tục, "Harvard về cơ bản là một thứ tập đoàn được tô son trát phấn, vận hành với động cơ lợi nhuận. Đó là thứ thúc đẩy nó. Trường được cấp vốn hàng tỷ đô la. Những người điều hành ngôi trường không nhất thiết phải kiếm tìm chân lý và tri thức. Họ chỉ muốn trở thành những nhân vật đình đám, và khi bạn đón nhận một chi phiếu lương từ tay những người này, mọi sự sẽ là giằng co giữa điều bạn muốn làm, điều bạn cảm thấy đúng nhưng mâu thuẫn với những cái họ bảo bạn có thể làm để rồi nhận được một chi phiếu lương khác. Khi bạn ở đó, họ sẽ được quyền khống chế bạn. Họ gắng sức đảm bảo rằng bạn không bước ra khỏi vòng."
Câu chuyện của Chris Langan nói lên điều gì với chúng ta? Những lời giải thích đau lòng của anh, giống như chính câu chuyện, cũng có đôi phần lạ lùng. Mẹ anh quên điền vào đơn xin trợ cấp tài chính - và như thế - không có học bổng. Anh gắng sức chuyển giờ học buổi sáng sang buổi chiều, một việc mà mọi sinh viên vẫn làm hàng ngày, nhưng bị từ chối. Và tại sao các giáo viên của Langan ở Reed và Montana lại cư xử khắt khe như thế với cảnh ngộ khốn khổ của anh? Giáo viên thông thường rất hứng thú với những bộ não thông minh xuất sắc như anh. Langan nói về việc phải đối mặt với trường Reed và Montana như thể các trường đó là kiểu bộ máy quan liêu chính phủ cồng kềnh và cứng nhắc. Nhưng các trường cao đẳng, đặc biệt là trường cao đẳng nghệ thuật độc lập như Reed, thì thường không có khuynh hướng trở thành những bộ máy quan liêu cứng nhắc. Thậm chí các giáo viên ở đó còn thường gây dựng các khoản trợ cấp dưới danh nghĩa giúp đỡ ai đó ở lại trường học.
Ngay trong cách luận bàn về Harvard, dường như Langan cũng không hề có khái niệm gì về văn hóa và những nét riêng biệt của cơ sở giáo dục mà anh đang nói đến. Khi bạn đón nhận một chi phiếu lương từ tay những người này, mọi sự sẽ là giằng co giữa điều bạn muốn làm, điều bạn cảm thấy đúng nhưng mâu thuẫn với những cái họ bảo bạn có thể làm để rồi nhận được một chi phiếu lương khác. Gì thế này? Một trong những lý do chính mà các giảng viên đại học chấp nhận mức lương thấp hơn mức họ có thể nhận được từ các trường tư là bởi môi trường đại học đem lại cho họ sự tự do để làm bất cứ điều gì họ muốn và họ cảm thấy đúng đắn. Langan đã hiểu lầm về Harvard.
Khi Langan kể tôi nghe câu chuyện cuộc đời anh, tôi không thể tránh khỏi việc nghĩ về cuộc đời của Robert Oppenheimer16, nhà vật lý trứ danh đi đầu trong nỗ lực của nước Mỹ nhằm phát triển bom hạt nhân thời kì Thế chiến thứ hai. Theo những thông tin thu thập được, Oppenheimer vốn là một đứa trẻ có trí não rất giống với Chris Langan. Cha mẹ ông coi cậu con trai là thiên tài.
16 J. Robert Oppenheimer (1904 – 1967): nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, được biết đến như là "cha đẻ của bom hạt nhân – bom A".
Một giáo viên của ông nhớ lại "Cậu bé đón nhận tất cả mọi ý tưởng mới theo cách đẹp đẽ và hoàn hảo." Robert đã làm các thí nghiệm khoa học từ hồi lớp ba, học vật lý và hóa học hồi lớp năm. Lúc lên chín, có lần cậu đã yêu cầu mấy người anh em họ: “Hỏi em một câu bằng tiếng Latinh đi rồi em sẽ trả lời bằng tiếng Hy Lạp.”
Oppenheimer vào học ở Harvard và tiếp đến là Đại học Cambridge để theo đuổi học vị tiến sỹ ngành vật lý. Ở đó, Oppenheimer - vốn đã phải tranh đấu với nỗi tuyệt vọng ám ảnh suốt cả cuộc đời, đã ngày càng nản chí. Tài năng của ông vốn dành cho vật lý lý thuyết, và người hướng dẫn của ông - giáo sư Patrick Blackett (người sau này giành được giải Nobel vào năm 1948), đã ép Robert phải làm những công việc vật lý thực nghiệm vụn vặt, thứ Robert rất căm ghét. Robert ngày càng trở nên bất ổn định về cảm xúc, và sau đó, trong một động thái kỳ quặc đến mức tới tận ngày nay cũng chưa có ai hiểu thấu đáo, Oppenheimer đã lấy một ít hóa chất ở phòng thí nghiệm rồi tìm cách đầu độc thầy giáo hướng dẫn.
Rất may mắn là Blankett phát hiện ra điều gì đó bất thường nên đã thông báo cho trường. Oppenheimer bị gọi lên quở trách. Và điều xảy ra sau đó cũng hoang đường chẳng kém gì so với bản thân âm mưu tội ác. Dưới đây là những tình tiết liên quan được miêu tả trong cuốn sách American Prometheus (tạm dịch: Prômêtê của nước Mỹ) - cuốn tiểu sử Oppenheimer của hai tác giả Kai Bird và Martin Sherwin: Sau những cuộc đàm phán kéo dài, người ta đồng tình rằng Robert sẽ phải chịu quản chế và có những cuộc tiếp xúc thường xuyên với theo một liệu trình điều trị tâm lý với một chuyên gia tâm thần học trứ danh Phố Harley ở London.
Bị quản chế?
Ở đây chúng ta có hai sinh viên trẻ tuổi cực kỳ thông minh, mỗi người đều vướng vào một rắc rối nào đó khiến cho sự nghiệp học hành của họ gián đoạn. Mẹ của Langan thì quên nộp đơn xin hỗ trợ tài chính cho anh. Còn Oppenheimer thì tìm cách đầu độc thầy giáo hướng dẫn. Để có thể học tiếp, họ bị yêu cầu phải giải thích trước những người có thẩm quyền. Nhưng điều gì xảy ra? Langan bị tước mất học bổng, còn Oppenheimer bị gửi đến bác sĩ tâm lý. Oppenheimer và Langan có thể đều là thiên tài, nhưng xét về những khía cạnh còn lại, họ khác xa nhau.
Câu chuyện Oppenheimer được bổ nhiệm làm giám đốc khoa học của Dự án Manhattan hai mươi năm sau đó có lẽ là một thí dụ tốt đẹp nhất cho những khác biệt này. Vị tướng phụ trách Dự án Manhattan là Leslie Groves đã lùng sục khắp nước Mỹ, cố gắng tìm cho ra một người phù hợp để chỉ đạo nỗ lực chế tạo bom nguyên tử. Thẳng thắn mà nói, Oppenheimer chẳng có mấy cơ may. Khi ấy ông mới ba mươi tám tuổi, chỉ là đàn em so với rất nhiều người mà ông sẽ phải lãnh đạo. Robert chỉ là một nhà lý thuyết, mà đây lại là công việc đòi hỏi những nhà thực nghiệm và kỹ sư. Lai lịch chính trị đầy vết đen: từng thân thiết với đủ loại bạn bè. Nhưng điều đáng kể nhất là ông chưa từng có chút kinh nghiệm điều hành dự án nào cả. "Anh ta là một gã thiếu thực tiễn lắm," một trong số những người bạn của Oppenheimer về sau đã nói vậy.
"Anh ta cứ đi loăng quăng với đôi giày mòn quẹt và cái mũ nực cười, và, quan trọng hơn, anh ta chẳng biết gì về máy móc thiết bị cả." Như lời một nhà khoa học ở Berkeley tóm lại rất súc tích ngắn gọn là: "Anh ta còn chẳng điều hành nổi một quầy bán dạo hamburger."
Ồ, mà trong lúc đang học tiến sỹ, ông còn cố gắng khử giáo viên hướng dẫn của mình. Đây chính là bản lý lịch của người đàn ông đang cố nắm bắt một công việc - có thể nói không chút khoa trương là - một trong những công việc quan trọng bậc nhất của thế kỉ XX. Và điều gì đã xảy ra? Một thứ tương tự với điều từng xảy ra ở trường Cambridge hai mươi năm về trước: Robert Oppenheimer bắt phần còn lại của thế giới phải nhìn nhận mọi thứ theo cách của riêng ông.
Lại dẫn lời của Bird và Sherwin: "Oppenheimer hiểu rằng Groves canh giữ cánh cửa dẫn vào Dự án Manhattan, và bởi thế anh vận dụng mọi tài phép và trí thông minh của mình. Đó là một màn biểu diễn không thể chối từ." Groves choáng váng. Sau này Groves tâm sự với một kí giả. "'Anh ta là một thiên tài. Một thiên tài thực sự.'" Groves là một kỹ sư qua đào tạo bài bản với một tấm bằng cao học tại MIT và Oppenheimer đã suy nghĩ cực kỳ khôn ngoan khi quyết định phải lôi cuốn phần con người đó của Groves. Bird và Sherwin tiếp tục: "Oppenheimer chính là nhà khoa học đầu tiên mà Groves gặp mặt trong số những ứng viên tiềm năng sẽ nắm trong tay việc nghiên cứu chế tạo quả bom hạt nhân, một công việc đòi hỏi tìm kiếm những giải pháp thực tiễn cho một loạt những vấn đề phức tạp chồng chéo... Groves nhận ra mình đã gật đầu đồng ý khi Oppenheimer say sưa quan sát phòng thí nghiệm trung tâm được dành cho mục đích này, nơi mà sau đó ông đã nhận xét là, 'chúng ta có thể bắt đầu nỗ lực nghiên cứu các vấn đề hóa chất, luyện kim, cơ khí và quân nhu - những thứ cho tới lúc đó vẫn không được coi trọng mấy."
Liệu Oppenheimer có đánh mất học bổng của mình ở Reed không? Liệu ông có rơi vào cảnh lực bất tòng tâm khi muốn thuyết phục giáo viên cho chuyển xuống lớp học buổi chiều không? Đương nhiên là không và đó không phải bởi Robert Oppenheimer thông minh hơn Chris Langan. Chỉ bởi Robert nắm trong tay một thứ hiểu biết cho phép có được điều ông muốn từ cuộc sống.
"Họ bắt tất cả mọi người phải học nhập môn tích phân," Langan nói về quãng thời gian ngắn ngủi ở Montana State. Và tôi tình cờ gặp phải một ông thầy dạy rất khô khan, vụn vặt. Tôi chẳng hiểu tại sao ông ấy lại dạy như vậy. Thế nên tôi đặt câu hỏi ngược cho ông ấy. Thực ra tôi đã phải chạy theo tới tận văn phòng của ông ấy. Tôi hỏi, 'Tại sao thầy lại dạy như thế? Tại sao thầy lại nghĩ là phương pháp này phù hợp với môn tích phân cơ chứ?' Và người giáo viên này, một người cao lêu đêu, lòng bàn tay luôn rịn mồ hôi, quay lại nhìn tôi và nói, 'Cậu biết đấy, có một số điều cậu chắc chắn phải thẳng thắn đối mặt rằng: Một số người không có được thứ đòn bẩy để trở thành các nhà toán học.'"
Họ ở đó, một giáo viên và một thiên tài, và điều thiên tài mong mỏi rõ ràng là được gắn bó, sau biết bao sóng gió trở ngại, với một đầu óc yêu chuộng toán học nhiều như mình vậy. Nhưng Langan đã thất bại. Thực tế - và đây cũng là khía cạnh đau lòng nhất - Chris đã cố gắng để có một cuộc đối thoại trọn vẹn với giáo viên môn tích phân nhưng lại không hề đả động đến một yếu tố nào có nhiều khả năng thu hút nhất với một giáo viên tích phân. Người giáo viên ấy không bao giờ nhận ra được rằng Chris Langan giỏi môn tích phân.
Thứ kỹ năng chuyên biệt cho phép bạn có thể biện hộ cho mình thoát khỏi tội sát nhân, hoặc thuyết phục giáo viên chuyển bạn từ lớp học buổi sáng xuống buổi chiều chính là thứ mà nhà tâm lý học Robert Sternberg17 gọi là "trí thông minh thực tiễn" (practical intelligence). Đối với Sternberg, trí thông minh thực tiễn bao gồm các thứ như "biết nói điều gì với ai, biết khi nào thì nói, và nói ra sao để đạt được hiệu quả tối đa." Nó mang tính quy trình: tự biết làm một điều gì đó như thế nào mà không cần thiết phải hiểu xem tại sao bạn lại biết hoặc đủ khả năng giải thích điều đó. Đó không phải là sự hiểu biết vì mục đích kiến thức mà là nắm được bản chất sự việc. Sự hiểu biết khiến bạn có thể nắm bắt được chính xác yêu cầu tình huống và cách thức đạt được thứ mình muốn. Tóm lại đó là thứ trí thông minh tách rời khỏi năng lực phân tích
17 Robert Jeffrey Sternberg (sinh tháng 8/1949): nhà tâm lý học nổi tiếng của Mỹ, từng là giáo sư tâm lý giáo dục của đại học Yale, nguyên chủ tịch Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ. được đo lường bằng chỉ số IQ. Nói theo thuật ngữ kỹ thuật thì, trí thông minh nói chung và trí thông minh thực tiễn "trực giao" với nhau: sự tồn tại của cái này không bao gồm cái còn lại. Bạn có thể sở hữu trí thông minh phân tích dồi dào nhưng lại có rất ít trí thông minh thực tiễn, hoặc rất nhiều trí thông minh thực tiễn nhưng lại chẳng có mấy trí thông minh phân tích - hoặc, trong những trường hợp may mắn như ai đó kiểu Robert Oppenheimer - bạn thừa thãi cả hai loại trí thông minh.
Vậy những thứ kiểu như trí thông minh thực tiễn có nguồn gốc từ đâu? Chúng ta biết trí thông minh phân tích có từ nơi nào. Chí ít thì phần nào nó cũng bắt nguồn từ mã di truyền (gene). Chris Langan bắt đầu biết nói từ khi mới sáu tháng tuổi. Langan tự dạy mình đọc khi lên ba. Anh là người thông minh bẩm sinh. Ở mức độ nào đó, IQ chính là thứ thước đo năng lực thiên phú.18 Nhưng thái độ khôn ngoan trong ứng xử với xã hội lại là một loại kiến thức. Đó là một bộ kỹ năng buộc người ta phải học. Nó phải bắt nguồn từ đâu đó, và gia đình dường như là nơi chúng ta học được những thái độ và kỹ năng như thế.
18 Hầu hết các số liệu ước tính mức độ thừa hưởng di truyền IQ là vào khoảng 50%. (TG)
Có lẽ cách giải thích tốt nhất mà chúng ta có được về quá trình này đến từ nhà xã hội học Annette Lareau, giáo sư xã hội học trường Temple, bang Pennsylvania, người vài năm trước đã có nghiên cứu thú vị về một nhóm học sinh lớp 3. Cô lựa ra nhóm trẻ em da trắng, da đen, nhóm từ các gia đình giàu có và cả nghèo khó, tập trung nghiên cứu vào khoảng hai mươi gia đình. Lareau và cộng sự đã đến thăm mỗi gia đình ít nhất hai mươi lượt, mỗi lần kéo dài hàng tiếng đồng hồ trong suốt một thời gian tiến hành nghiên cứu. Lareau và các trợ tá của mình yêu cầu các đối tượng nghiên cứu không phải quan tâm đến họ, chỉ cần coi họ như "chó nuôi của gia đình". Cả nhóm theo chân các thành viên gia đình đến nhà thờ, đến các trận bóng đá và các cuộc hẹn với bác sỹ, một tay thủ sẵn máy ghi âm và tay kia cầm sổ ghi chép.
Có thể bạn sẽ mong chờ rằng đã bỏ ra cả một khoảng thời gian dài như thế vào hai mươi gia đình, thứ bạn thu lượm lại được sẽ phải là hai mươi ý kiến khác nhau về cách nuôi dạy con cái: sẽ có những bậc cha mẹ nghiêm khắc và những người dễ dãi, những bậc phụ huynh can thiệp thái quá và những người dịu dàng mềm mỏng, vân vân và vân vân. Vậy mà, điều Lareau phát hiện ra lại rất khác biệt. Chỉ có đúng hai "triết lý" làm cha mẹ, và chúng phân tách gần như hoàn toàn theo đúng giai tầng xã hội. Các bậc cha mẹ giàu có nuôi dạy con một kiểu, và những người nghèo túng dạy con theo một cách khác.
Những vị phụ huynh giàu có can thiệp mạnh mẽ vào thời gian rảnh rỗi của con trẻ, họ đưa con mình qua lại như thoi từ hoạt động này sang hoạt động khác, căn vặn con về giáo viên, các huấn luyện viên và bạn bè đồng đội. Một trong những đứa trẻ nhà giàu mà Lareau theo dõi chơi trong một đội bóng chày, hai đội bóng đá, một đội bơi và cả một đội bóng rổ vào mùa hè, cộng thêm cả chơi trong một dàn nhạc và dự lớp dương cầm.
Kiểu sắp xếp lịch trình chặt chẽ như thế hầu như vắng bóng hoàn toàn trong đời sống những đứa trẻ nhà nghèo. Vui chơi với các em này không phải là tập bóng đá hai lần một tuần. Đó chỉ là bày trò chơi bên ngoài với các anh chị em cùng đám trẻ con láng giềng. Những thứ bọn trẻ làm bị cha mẹ chúng coi là điều gì đó vớ vẩn và chẳng có mấy giá trị. Một em gái xuất thân từ gia đình lao động - Katie Brindle có hát trong dàn đồng ca sau giờ học ở trường. Nhưng em tự mình đến đăng ký và cũng tự đi đến chỗ luyện tập đồng ca. Lareau viết:
Điều mà bà Brindle không làm - một chuyện vốn thường tình với các bà mẹ ở tầng lớp trung lưu, - là coi sở thích hát hò của con gái như một dấu hiệu để tìm kiếm những cách thức khác giúp em phát triển thú vui ấy trở thành tài năng chính thức. Tương tự như thế, bà Brindle cũng không bàn luận về sở thích diễn kịch của Katie hay bày tỏ nuối tiếc rằng bà không có đủ điều kiện để chăm bẵm cho tài năng của cô con gái. Thay vào đó, bà chắp nối những kỹ năng và sở thích của Katie như thể những nét đặc trưng của một nhân vật - hát hò và diễn kịch là một phần khiến Katie "đúng là Katie." Bà chỉ thấy những vở diễn mà con gái sắm vai là "dễ thương" và như một cách để Katie "thu hút sự chú ý."
Các bậc cha mẹ trung lưu trò chuyện đến nơi đến chốn với con cái, lập luận và phân tích với chúng. Họ không đơn thuần ra mệnh lệnh. Họ mong đợi con cái trò chuyện với họ, để đàm phán, để đặt câu hỏi với những người lớn ở vai trò của người có thẩm quyền. Nếu bọn trẻ đạt kết quả kém cỏi ở trường, các bậc cha mẹ giàu có sẽ chất vấn giáo viên. Họ thay mặt con cái can thiệp vào mọi chuyện. Một đứa trẻ mà Lareau theo dõi vừa bị loại khỏi một chương trình thi học sinh giỏi thì mẹ của em này đã dàn xếp để em được thi lại riêng, kiến nghị với nhà trường và làm cho con gái mình trúng tuyển. Còn các bậc cha mẹ nghèo thì ngược lại. Bị quyền hành dọa dẫm và sợ hãi nhà trường, họ phản ứng thụ động và chỉ rụt rè đứng nấp phía sau. Lareau viết về một bậc phụ huynh có thu nhập thấp:
Lấy thí dụ, trong một cuộc họp của phụ huynh và giáo viên, bà McAllister (một người đã tốt nghiệp cấp ba) tỏ vẻ thờ ơ. Bản tính ham thích giao du và thân mật suồng sã mà bà thể hiện ở nhà được giấu kín trong khung cảnh này. Bà ngồi thu người trên ghế và kéo khóa áo khoác lên kín cổ, ngồi rất lặng lẽ. Khi giáo viên thông báo Harold - cậu con trai bà - không nộp bài tập, bà McAllister lặng đi vì kinh ngạc, nhưng tất cả những gì bà nói chỉ là "Thằng bé làm bài ở nhà rồi mà." Bà không hề theo sát giáo viên hay thử thay mặt Harold xem lại điều giáo viên nói. Trong suy nghĩ của bà, quản lý việc học hành của con trai hoàn toàn tùy thuộc vào các giáo viên. Đó là việc của họ, không phải của bà.
Lareau gọi phong cách nuôi nấng con cái của tầng lớp trung lưu là "nuôi dạy có tính toán." (converted cultivation). Đó là nỗ lực chủ động "bồi dưỡng và ước định tài năng, quan điểm và kỹ năng của một đứa trẻ". Các bậc cha mẹ túng bấn thì ngược lại - có xu hướng thuận theo một chiến lược "thực hiện trưởng thành tự nhiên." Họ nghĩ mình có trách nhiệm quan tâm đến con cái nhưng để chúng tự trưởng thành và phát triển.
Lareau nhấn mạnh rằng phong cách này không hề ưu việt hơn về đạo đức so với phong cách khác. Trong suy nghĩ của bà, những đứa trẻ nghèo thường cư xử tốt hơn, ít nhõng nhẽo, sáng tạo hơn trong việc sử dụng thời gian rất hiệu quả, và sở hữu một ý thức độc lập được phát triển lành mạnh. Nhưng xét về khía cạnh thực tế, việc nuôi dạy có tính toán lại có những ưu thế rất lớn. Một đứa trẻ trung lưu với lịch trình được sắp xếp chặt chẽ được đặt vào một loạt những trải nghiệm biến đổi liên tục. Đứa trẻ sẽ học được cách làm việc theo nhóm, học cách hòa nhập trong những hoàn cảnh được bố trí chặt chẽ. Nó được dạy cách giao tiếp mềm mỏng với người lớn, và cả cách lên tiếng khi cần. Trong ngôn ngữ của Lareau, trẻ em tầng lớp trung lưu học được thứ ý thức về "quyền được làm." (entitlement)
Dĩ nhiên, từ ấy cũng có ý nghĩa tiêu cực xét trong bối cảnh ngày nay. Nhưng Lereau muốn đề cập đến những ý nghĩa tốt đẹp nhất của thuật ngữ này: "Các em cư xử như thể chúng có quyền theo đuổi sở thích cá nhân và chủ động kiểm soát những mối tương tác trong các bối cảnh trường sở đó; chúng sẵn sàng chia sẻ thông tin và đòi hỏi sự chú ý... Một kỹ năng thông thường ở các trẻ em tầng lớp trung lưu là biến đổi các mối tương tác sao cho phù hợp với sở thích của chúng." Chúng biết rõ quy luật. "Thậm chí ngay cả ở lớp 4, các em nhỏ trung lưu có vẻ đã hành động trên danh nghĩa của chính mình để giành ưu thế. Chúng đưa ra những yêu cầu đặc biệt để các giáo viên và bác sỹ điều chỉnh thủ tục sao cho phù hợp với những mong muốn của mình."
Ngược lại, những trẻ em thuộc tầng lớp lao động hoặc nhà nghèo lại được mô tả đặc điểm là "một cảm giác xa cách, ngờ vực và bị kiềm thúc chặt." Các em không biết phải làm thế nào để theo ý mình, hoặc làm thế nào để "tùy biến" (customize) - nói theo một thuật ngữ tuyệt hảo mà Lareau sáng tạo ra - để đạt được những mục đích của mình, bất kể các em đang ở trong môi trường nào.
Lareau miêu tả chuyến đi khám bác sỹ đặc biệt ấn tượng của Alex Williams, một cậu bé chín tuổi cùng với mẹ em, Christina. Gia đình Williams là một nhà giàu có.
Trên đường đến phòng khám bác sỹ, Christina nói với con: "Alex, con phải nghĩ xem con muốn hỏi bác sỹ vấn đề gì. Con có thể hỏi bác sỹ bất cứ thứ gì con muốn. Con có thể hỏi bất cứ điều gì."
Alex suy nghĩ một phút, rồi nói, "Con có mấy chỗ nổi cục ở dưới cánh tay vì cái lăn khử mùi." Christina: "Thật à? Ý con là tại cái lăn khử mùi mới hả?" Alex: "Vâng." Christina: "Ừ, thế thì con nên hỏi bác sỹ."
Lareau viết, mẹ của Alex "dạy cậu bé rằng cậu có quyền lên tiếng" - rằng cho dù cậu sắp có mặt trong một căn phòng với một người lớn tuổi hơn và là một nhân vật có quyền năng, thì vẫn hoàn toàn ổn thỏa nếu cậu bé muốn đòi hỏi quyền lợi cho mình. Họ gặp bác sỹ, một người đàn ông trạc tứ tuần hiền hậu. Ông bảo Alex rằng cậu bé nằm trong nhóm 95% về chiều cao. Alex liền ngắt lời:
Alex: Cháu thuộc nhóm gì cơ?
Bác sỹ: Thế nghĩa là trong số một trăm cậu bé mười tuổi thì cháu cao hơn chín mươi lăm đứa.
Alex: Cháu không phải mười tuổi.
Bác sỹ: À ừ, họ minh họa cháu ở độ tuổi lên mười. Cháu chín tuổi và mười tháng. Họ thường lấy năm gần sát nhất để đưa vào đồ thị.
Hãy xem Alex ngắt lời bác sỹ dễ dàng ra sao - “Cháu không phải mười tuổi.” Đó chính là quyền được làm: mẹ cậu bé cho phép thái độ bất kính bình thường như thế bởi cô muốn con trai mình học cách đòi hỏi quyền lợi cho bản thân nó trước những người ở vị thế có thẩm quyền.
Bác sỹ quay về phía Alex: Nào, giờ sẽ đến câu hỏi quan trọng nhất. Cháu có điều gì muốn hỏi trước khi bác khám cho cháu không?
Alex: Ừm... chỉ một thôi ạ. Cháu bị nổi cục mấy chỗ dưới cánh tay, ngay chỗ này ạ (chỉ phần dưới cánh tay).
Bác sỹ: Phía dưới phải không? Alex: Vâng ạ.
Bác sỹ: Được rồi. Bác sẽ thử xem chỗ đó trước khi khám kỹ hơn để kết luận. Bác sẽ xem vết đó thế nào và có thể làm gì. Có đau hay ngứa không cháu?
Alex: Không, chỉ thế thôi ạ.
Bác sỹ: Ừ, bác sẽ xem mấy vết đấy cho cháu.
Với những đứa trẻ ở tầng lớp dưới, kiểu tương tác này đơn giản là không xảy ra, Lareau nói. Chúng sẽ lặng im, ngồi ngoan ngoãn, mắt hướng ra chỗ khác. Alex kiểm soát được thời điểm ấy. "Bằng cách nhớ việc đưa ra câu hỏi đã chuẩn bị từ trước, cậu bé đã thu hút được sự chú ý của bác sỹ và xoáy vào một vấn đề mà nó lựa chọn," Lareau viết.
Bằng cách đó, cậu bé đã chuyển dịch thành công cán cân quyền lực xa khỏi những người lớn và hướng về phía mình. Sự chuyển đổi ấy diễn ra êm ru. Alex đã quen với việc được đối xử với thái độ tôn trọng. Cậu được coi là đặc biệt và xứng đáng nhận được sự chú ý và niềm vui thích từ phía người lớn. Đây chính là những đặc điểm mấu chốt của chiến lược nuôi nấng có tính toán. Alex không hề khoe mẽ trong buổi khám. Cậu bé cư xử giống như đối với cha mẹ - cậu lập luận, đàm phán và cả trêu đùa với sự thoải mái tương tự.
Việc hiểu xem khả năng kiểm soát tình huống đặc biệt ấy có nguồn gốc từ đâu là rất quan trọng. Đó không phải là di truyền. Alex Williams không hề được di truyền những kỹ năng giao tiếp với các nhân vật uy quyền từ cha mẹ và ông bà giống như cách cậu thừa hưởng màu mắt. Cũng không phải vấn đề chủng tộc: đây không phải là phương pháp riêng biệt của người da đen hay da trắng. Thực tế, Alex Williams là người da đen còn Katie Brindle da trắng. Đây chính là lợi thế văn hóa. Alex có được những kỹ năng ấy bởi trong suốt quãng thời gian thơ ấu của cậu, cha mẹ cậu - với nề nếp của những gia đình có giáo dục - đã dạy bảo cậu bé cẩn thận, thúc đẩy, khích lệ và chỉ cho cậu thấy những quy tắc của trò chơi, đơn cử là cuộc tập dượt ngay trong xe hơi trên đường đến phòng khám bác sỹ.
Khi nói về ưu thế thuộc về tầng lớp xã hội, Lareau lập luận, chúng ta chủ yếu ám chỉ điều nói trên. Alex Williams trội hơn Katie Brindle bởi cậu bé giàu có hơn và bởi cậu được học ở trường tốt hơn, nhưng cũng vì một lý do - có lẽ còn đóng vai trò then chốt hơn - ý thức về quyền được làm mà cậu bé được dạy dỗ chính là thứ thái độ phù hợp hoàn hảo cho việc giành được thành công trong thế giới hiện đại.
Đây chính là lợi thế mà Oppenheimer sở hữu còn Chris lại thiếu hụt. Oppenheimer được nuôi nấng ở một trong những khu vực ngoại ô giàu có nhất của Manhattan, là con trai của một họa sỹ thiết kế và nhà sản xuất đồ may mặc thành công. Tuổi thơ của Oppenheimer chính là hiện thân của phương pháp dạy có tính toán. Vào dịp cuối tuần, cả gia đình Oppenheimer sẽ dạo quanh vùng nông thôn trên một chiếc xe Packard có tài xế lái. Đến mùa hè, cậu bé Oppenheimer được đưa đến châu Âu thăm ông nội. Cậu học tại trường Văn hóa Luân lý ở Central Park West, có lẽ là một trong những cơ sở giáo dục tiên tiến nhất cả nước, mà theo lời những người chấp bút tiểu sử cho Oppenheimer thì đó là nơi các học sinh "thấm nhuần ý niệm rằng họ được chuẩn bị để cải cách cả xã hội." Khi giáo viên môn toán của Robert nhận thấy cậu tỏ ra buồn chán, cô đã chuyển cậu học trò sang làm bài tập độc lập.
Khi còn là một đứa trẻ, Oppenheimer đã đam mê sưu tập các loại đá. Lên mười hai tuổi, cậu bắt đầu trao đổi thư từ với các nhà địa chất học địa phương về các hệ đá mà cậu nhìn thấy ở Central Park, và cậu gây ấn tượng mạnh tới mức họ mời cậu đến diễn thuyết tại Câu lạc bộ Khoáng vật học New York. Như lời Sherwin và Bird viết, cha mẹ Oppenheimer phản ứng với sở thích của cậu con trai bằng một cách thức gần như là ví dụ chuẩn mực cho sách giáo khoa về chiến lược nuôi dạy có tính toán:
Khiếp đảm với suy nghĩ phải nói chuyện trước thính giả người lớn, Robert van nài cha cậu giải thích giúp để Câu lạc bộ hiểu rằng họ đã mời một cậu bé mới mười hai tuổi. Vô cùng thích thú, Julius khích lệ con trai mình đón nhận vinh dự này. Vào buổi tối được hẹn, Robert xuất hiện tại câu lạc bộ với cha mẹ mình, những người tự hào giới thiệu con trai mình là J. Robert Oppenheimer. Thính giả gồm các nhà địa chất học và những người sưu tập đá nghiệp dư giật mình ngạc nhiên và ồ lên cười khi Robert bước lên khán đài: người ta phải tìm một chiếc thùng gỗ cho cậu đứng lên, nhờ thế mà thính giả có thể trông thấy nhiều hơn mớ tóc thô xoắn bù xù nhoi lên phía trên bục diễn thuyết. Ngượng ngùng và lúng túng, nhưng Robert cuối cùng vẫn đọc hết những ghi chép đã chuẩn bị và được tặng cho cả tràng pháo tay nồng nhiệt.
Liệu có phải là kỳ tích khi Oppenheimer đã xuất sắc vượt qua những thử thách trong cuộc đời mình? Nếu bạn có sẵn một người cha thành công trong thế giới kinh doanh, đến lượt bạn sẽ biết phải đàm phán thế nào để thoát ra khỏi một tình huống khó khăn. Nếu bạn được gửi đến học tại Trường Văn hóa Luân lý, vậy thì bạn sẽ không sợ hãi trước một dãy các vị tai to mặt lớn trường Cambridge dàn hàng chất vấn bạn. Nếu bạn học vật lý tại Đại học Harvard, vậy thì bạn sẽ biết phải làm thế nào để trò chuyện với một vị tướng đã từng học ngành cơ khí ngay tại trường MIT.
Chris Langan thì hoàn toàn trái ngược, chỉ biết tới sự ảm đạm ở Bozeman, một mái nhà độc đoán và gia trưởng dưới tay một người cha dượng giận dữ và say khướt. "(Jack) Langan độc đoán và hành hạ tất cả chúng tôi," Mark nói. "Mỗi chúng tôi đều nuôi lòng oán giận sự độc đoán đó." Đó chính là bài học mà Langan có được từ tuổi thơ: nghi ngờ quyền lực và tỏ ra độc lập. Langan chẳng bao giờ có được người cha người mẹ dạy anh trên đường tới phòng mạch bác sỹ xem phải tự lên tiếng ra sao hay lập luận thế nào, để đàm phán với những người có chức, có quyền. Langan không hề có cơ hội học về quyền được làm. Anh chỉ học được sự kiềm thúc. Đó có vẻ là một điều nhỏ nhặt, nhưng lại là một bất lợi méo mó cản trở việc xác định phương hướng giữa một thế giới rộng lớn bên ngoài Bozeman.
"Tôi cũng không thể tìm được bất cứ khoản trợ cấp tài chính nào," Mark nói tiếp. "Chúng tôi không có chút kiến thức nào, thậm chí mù tịt về quy trình. Làm thế nào để nộp đơn, các biểu mẫu giấy tờ... Đó đâu phải môi trường của chúng tôi."
"Nếu Christopher được sinh ra trong một gia đình giàu có, nếu anh là con trai của một bác sỹ uy tín và có vị trí chủ chốt, tôi đảm bảo với bạn rằng anh đã trở thành một trong số những nhân vật mà bạn vẫn đọc thấy - một người nhận tấm bằng Tiến sỹ ở tuổi mười bảy," cậu em tên Jeff của Chris nói. "Chính môi trường mà bạn nhận thấy mình tồn tại trong đó quyết định điều ấy. Khó khăn với Chris là anh luôn cảm thấy quá buồn chán khi phải ngồi yên và lắng nghe giáo viên giảng dạy. Nếu ai đó nhận ra trí thông minh của anh và nếu anh xuất thân từ một gia đình coi trọng giáo dục, họ ắt sẽ giúp anh không thấy chán ngán."
Khi Nhóm Mối bước vào tuổi trưởng thành, Terman xem xét các ghi chép về 730 người và chia họ thành ba nhóm. Trong đó 150 người - chiếm 20% rơi vào một nhóm mà Terman gọi là Nhóm A. Họ đều là những người thành công thực sự - luật gia, nhà vật lý, kỹ sư và viện sỹ. 90% nhóm A tốt nghiệp đại học và họ giành được 98 tấm bằng bậc sau đại học. 60% ở giữa thuộc vào Nhóm B, những người đạt mức độ "hài lòng." 150 người dưới cùng là Nhóm C, những người Terman đánh giá là phát huy được ít nhất năng lực trí tuệ siêu việt của mình. Họ chỉ là các công nhân bốc vác hoặc những nhân viên kế toán làng nhàng và cả những người nằm chèo queo trên ghế bành tại nhà mà chẳng có nghề ngỗng gì.
Một phần ba của Nhóm C đã bỏ dở đại học hay cao đẳng. Một phần tư chỉ có bằng trung học, và tất cả 150 người ở Nhóm C - những người từng có lúc được gán cho cái mác thiên tài - tổng cộng lại chỉ có tám tấm bằng bậc sau đại học.
Vậy điểm khác biệt giữa những người Nhóm A và Nhóm C là gì? Terman đã phân tích tất cả những cách lý giải có thể hiểu được. Ông xem xét sức khỏe thể chất và tinh thần, "các chỉ số nam tính/nữ tính" và cả những sở thích cũng như hứng thú nghề nghiệp của họ. Ông so sánh độ tuổi họ bắt đầu tập đi và tập nói cũng như mức IQ chính xác họ đạt được ở tiểu học và trung học. Cuối cùng, nổi lên một thứ đóng vai trò quan trọng: hoàn cảnh gia đình.
Đa số áp đảo của Nhóm A xuất thân từ tầng lớp trung và thượng lưu. Nhà của họ đầy chật sách vở. Một nửa số người cha của Nhóm A có trong tay tấm bằng đại học hoặc trên đại học và điều đó xảy ra vào thời điểm mà giáo dục đại học vẫn là hiếm hoi. Ở phía bên kia, Nhóm C lại xuất thân từ một hoàn cảnh khác hẳn. Gần một phần ba nhóm này có cha hoặc mẹ bỏ học trước lớp tám.
Đến một thời điểm, Terman cho các chuyên viên của mình đến thăm tất cả các em trong nhóm A và C, xếp loại tính cách và hành vi của chúng. Điều họ phát hiện ra cũng chính là tất cả những gì bạn có thể mong đợi nếu đem so sánh con trẻ được nuôi dưỡng trong bầu không khí nuôi dạy có tính toán với trẻ em nuôi dạy theo cách để cho phát triển tự nhiên. Các em nhóm A được đánh giá là hoạt bát, tự chủ, lôi cuốn và cả ăn mặc đẹp hơn. Sự thực là điểm số trên cả bốn chiều kích này cách biệt đến nỗi đủ khiến bạn nghĩ là bạn đang nhìn vào hai loại người khác hẳn nhau. Tất nhiên là không phải thế. Đơn giản là bạn đang nhìn thấy sự khác biệt giữa những em được gia đình giáo dục để thể hiện mặt tốt đẹp nhất trước cuộc đời và một bên là những em bị chối từ trải nghiệm ấy.
Những kết quả nghiên cứu của Terman thật đáng đau buồn. Đừng quên rằng các đối tượng nhóm C đã từng tài năng ghê gớm đến mức nào. Nếu bạn đã gặp các em ở tuổi lên năm hay sáu, bạn ắt bị áp đảo bởi sự hiếu kỳ, đầu óc lanh lợi và vẻ lấp lánh trí thông minh của chúng. Các em là những kẻ xuất chúng thực thụ. Sự thật hiển hiện trong nghiên cứu của Terman là, hầu như không có thần đồng nào xuất thân từ tầng lớp dưới lại đạt được thành công to lớn trong cuộc đời sau này.
Vậy thì các đối tượng nhóm C thiếu hụt điều gì? Chẳng phải thứ gì đắt đỏ hoặc vô phương tìm kiếm; không phải thứ gì đó được mã hóa trong DNA hoặc nối cứng vào các vi mạch của não bộ. Các em thiếu đi một thứ mà nếu biết chúng cần, ta hoàn toàn có thể mang tới cho chúng: một cộng đồng ở xung quanh giúp chúng chuẩn bị thật thích hợp với thế giới. Nhóm C đã bị lãng phí tài năng. Điều mà chúng không không đáng bị như thế.
Bây giờ, Chris Langan sống trong một nông trại nuôi ngựa ở vùng nông thôn Missouri. Anh chuyển về đây vài năm trước, sau khi kết hôn. Anh giờ đã ở vào độ tuổi ngũ tuần, nhưng trông trẻ hơn rất nhiều so với tuổi thực. Anh có tầm vóc to khỏe, ngực vồng nở nang với bắp tay to bự, tóc chải ngược từ trán ra phía sau. Anh có một bộ ria gọn gàng màu xám và đeo kính kiểu phi công. Nếu nhìn vào mắt anh, bạn có thể thấy vẻ thông minh rừng rực trong đó.
"Một ngày điển hình của tôi là thế này: thức dậy và pha cà phê, rồi đi vào phòng, ngồi trước máy tính và bắt đầu với bất cứ thứ gì tôi đang làm dở hồi đêm trước," anh kể tôi nghe không lâu trước đây. "Tôi nghiệm ra là nếu tôi đi ngủ với một câu hỏi treo sẵn trong đầu, thì tất cả những gì tôi phải làm là tập trung vào câu hỏi đó trước khi lên giường và chắc chắn là tôi luôn có được câu trả lời vào buổi sáng. Đôi khi tôi tìm ra câu trả lời bởi tôi đã mơ thấy và tôi có thể nhớ được nó. Những lần khác thì tôi chỉ cần cảm giác được câu trả lời, tôi bắt đầu gõ bàn phím và câu trả lời hiện lên trên mặt giấy."
Anh đã bắt đầu đọc các tác phẩm của giáo sư ngôn ngữ học Noam Chomsky. Có hàng chồng sách chất ngất trong phòng làm việc của anh. Anh liên tục mượn sách ở thư viện. "Tôi luôn cảm thấy là càng tiếp cận gần hơn với những nguồn thông tin lớn, bạn sẽ càng có điều kiện tốt hơn," anh nói.
Langan có vẻ mãn nguyện. Anh có trong tay lũ ngựa trong trang trại để chăm nom, những cuốn sách để đọc và cả người vợ mà anh yêu thương. Đó là một cuộc sống tốt đẹp hơn nhiều so với việc làm một anh bảo kê.
"Tôi không nghĩ là ngoài kia có ai đó thông minh hơn tôi," anh tiếp tục. "Tôi chưa từng gặp một ai như tôi hay chưa từng nhận ra một dấu hiệu nào cho thấy có ai đó thực sự sở hữu năng lực nhận thức cao siêu hơn. Chưa bao giờ gặp và tôi không nghĩ tôi sẽ gặp được. Tôi có thể - đầu óc tôi hoàn toàn cởi mở trước mọi khả năng. Nếu ai đó thách thức tôi - 'Này, tôi nghĩ rằng tôi thông minh hơn anh đấy' - tôi nghĩ là tôi có thể đánh bại người đó."
Những gì anh nói có vẻ khoe mẽ, nhưng không hẳn vậy. Mà là điều ngược lại - một chút tâm thái phòng ngự. Suốt mấy chục năm nay anh đã thực hiện một dự án với mức độ tinh vi ghê gớm - nhưng hầu như chưa có phần nào trong công trình nghiên cứu của anh từng được công bố, các nhà vật lý, các nhà triết học và toán học - những người có khả năng kiểm định giá trị của những nghiên cứu đó - cũng chưa bao giờ đọc. Langan đây, một người sở hữu trí não có một không hai, nhưng đến giờ vẫn chưa hề có bất cứ ảnh hưởng nào lên thế giới. Anh chưa từng diễn thuyết ở một buổi hội thảo chuyên ngành, chưa từng chủ trì một buổi báo cáo tốt nghiệp tại một trường đại học danh tiếng nào. Anh vẫn sống trong một trang trại nuôi ngựa khá tồi tàn ở phía bắc Missouri, mặc quần jeans và áo ba lỗ ngồi trong chiếc ghế tựa. Hơn ai hết anh hiểu rõ: đây chính là tình cảnh trớ trêu ghê gớm của thiên tài Chris Langan.
"Tôi chưa từng đeo đuổi một nhà xuất bản dang tiếng nào, điều mà đáng ra tôi nên làm," anh thừa nhận. "Vo ve xung quanh, đặt vấn đề với các nhà xuất bản, cố gắng tìm ra một đại diện giúp tôi xuất bản. Tôi chưa từng làm thế, và tôi cũng chẳng hứng thú gì với việc đó."
Đó là một lời thú nhận về thất bại. Mọi trải nghiệm anh đã từng có bên ngoài trí óc của mình rút cục đều nhuốm vẻ buồn thảm. Anh hiểu mình cần phải hoà nhập với thế giới tốt hơn nữa, nhưng anh không biết phải làm thế nào. Anh thậm chí chẳng thiết lập nổi một cuộc trò chuyện với giáo viên dạy môn tích phân. Có những điều mà người khác - với trí tuệ kém hơn lại giải quyết dễ dàng. Nhưng đó là bởi họ nhận được sự giúp đỡ trong suốt quá trình, còn Langan thì chưa bao giờ. Đó không phải một cái cớ, mà là hiện thực. Anh phải tự xoay xỏa một mình. Và không ai - không một ngôi sao ca nhạc, không một vận động viên chuyên nghiệp, không một tỷ phú phần mềm, thậm chí không có thiên tài nào - đơn thương độc mã lại có thể thành công.
C H Ư Ơ N G V
Ba bài học của Joe Flom
Joe Flom chính là sáng lập viên còn sống cuối cùng "góp tên" trong hãng luật Skadden, Arps, Slate, Meagher và Flom19 . Ông có một góc làm việc trên tầng chóp của tòa nhà Condé Nast ở Manhattan. Ông thấp và hơi gù. Đầu to, tai lớn với dái tai dài, đôi mắt nhỏ màu xanh ẩn sau mắt kính kiểu phi công to quá khổ. Giờ thì ông khá gầy, nhưng trong những tháng ngày huy hoàng, ông rất bệ vệ. Ông lụt tụt khi bước đi. Ông đứng sững khi suy nghĩ. Ông lầm bầm khi trò chuyện, và khi ông bước xuống khu sảnh của Skadden, Arps, những cuộc đối thoại chỉ còn là lào phào im lặng.
19 Skadden, Arps, Slate, Meagher & Flom LLP and Affiliates là một hãng luật danh tiếng ở New York, thành lập năm 1948. Với trên 2.000 luật sư, đây là một trong những hãng luật lớn nhất và phát triển nhanh nhất thế giới. Tạp chí Forbes gọi Skadden là hãng luật hùng mạnh nhất phố Wall.
Flom sinh trưởng tại vùng phụ cận Borough Park của Brooklyn, đúng trong thời kỳ Đại khủng hoảng20 . Cha mẹ ông là dân nhập cư Do Thái đến từ Đông Âu. Cha ông - Isadore vốn là người tổ chức nghiệp đoàn trong ngành may mặc, sau chuyển sang công việc may đệm vai cho trang phục nữ. Mẹ ông thì nhận đồ trang trí thủ công về làm thêm tại nhà. Họ nghèo túng thảm thương. Khi Joe lớn, hầu như năm nào gia đình ông cũng chuyển nhà, vì thời bấy giờ, theo thông lệ chủ nhà sẽ cho người thuê mới miễn phí một tháng tiền nhà, điều rất quan trọng đối với gia đình Flom.
Lớn lên, Flom dự tuyển vào trường trung học công lập Townsend Harris danh giá, một trường mà trong bốn mươi năm tồn tại đã sản sinh ra ba người giành giải Nobel, sáu người đoạt giải Pulitzer, một thẩm phán Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, chưa kể đến George Gershwin21 và cả Jonas Salk, nhà sáng chế vaccine bại liệt. Flom được tuyển vào trường. Mẹ Flom cho cậu mười xu để ăn điểm tâm mỗi sáng - ba chiếc bánh rán, nước cam và cà phê tại cửa hiệu Nedick's. Sau giờ học, Flom làm thêm việc đẩy xe cút kít tại khu may mặc. Ông trải qua hai năm học ca đêm tại Trường City ở khu thượng Manhattan, làm việc quần quật cả ngày để
20 Chỉ thời kỳ khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ năm 1929 và kết thúc cuối thập niên 1930. Các sử gia thường lấy mốc đánh dấu khởi đầu giai đoạn này vào ngày 29/10/1929 - ngày thị trường chứng khoán sụp đổ.
21 George Gershwin (1898-1937) - nhạc sỹ và nghệ sỹ piano vĩ đại người Mỹ. Gershwin sáng tác nhạc cho cả sân khấu kịch Broadway và các dàn giao hưởng cổ điển cũng như ca khúc Pop. Vô số nghệ sỹ danh tiếng đã từng ghi âm các tác phẩm của Gershwin. Một số tác phẩm phổ biến: vở opera Porgy and Bess, giao hưởng Rhapsody in Blue... trang trải cuộc sống, đăng ký gia nhập quân đội, hoàn thành nghĩa vụ rồi ứng tuyển vào Trường Luật Harvard.
"Tôi đã ước mơ được vào ngành luật từ hồi mới sáu tuổi," Flom nói. Chưa có một tấm bằng nào trong bảng thành tích nhưng trường Harvard vẫn đồng ý nhận ông. "Tại sao ư? Tôi đã viết cho họ một bức thư thuyết phục họ rằng tôi chính là câu trả lời tuyệt hảo22". Cách Flom giải thích sự việc, với lối nói vắn tắt đặc trưng đã thuyết phục được Harvard nhận ông vào học, đó là thời điểm cuối những năm 1940. Học tại trường, ông chẳng bao giờ ghi chép. "Năm thứ nhất, chúng tôi thường áp dụng một phương pháp học bằng cách ghi chép cẩn thận về tình huống trên lớp, tóm tắt lại, rồi ghi lần nữa vào mẩu giấy, dán lên trên đầu mỗi hồ sơ ", Charles Harr - một bạn cùng lớp với Flom đã nhớ lại. "Đó là cách chúng tôi học về các vụ xử án. Nhưng Joe thì không. Anh ấy chẳng làm gì cả. Ở anh ấy có một phẩm chất mà chúng tôi luôn nghĩ và xếp vào nhóm "tư duy như luật sư.' Anh ấy có năng lực phán xử tuyệt vời."
Flom được vinh danh trong tạp chí Law Review - một vinh dự dành cho sinh viên đứng đầu lớp. Trong dịp nghỉ lễ Giáng sinh hồi năm thứ hai, suốt "mùa tuyển dụng", , Flom đến New York để dự phỏng vấn với những hãng luật lớn thời đó. "Tôi là một thằng bé béo bệu lóng ngóng, vụng về. Tôi không thấy thoải mái lắm," Flom nhớ lại.
22 Câu nói nguyên bản của Flom là "I wrote them a letter on why I was the answer to sliced bread." Ở đây Flom có sử dụng một thành ngữ rất phổ biến "The best/great things since sliced bread" - mang nghĩa là "tuyệt vời, hoàn hảo".
"Đến cuối mùa tuyển dụng, tôi là một trong hai đứa còn lại của lớp không kiếm nổi một công việc. Thế rồi một ngày kia, một trong số các giảng viên nói rằng có mấy người đang khởi sự một hãng luật. Tôi gặp họ và trong suốt buổi gặp, họ nói cho tôi nghe về những mạo hiểm của việc chung tay góp sức với một hãng luật vô danh, chưa có lấy nổi một khách hàng. Họ càng nói, tôi càng thích họ hơn. Thế nên tôi bảo ngay: thì sao chứ, tôi muốn nhận cơ hội này. Tất cả gom góp lại với nhau được ba nghìn sáu trăm đô-la một năm, đó cũng là mức lương khởi điểm." Ban đầu, chỉ có Marshall Skadden và Leslie Arps - cả hai đều bị một hãng luật quan trọng tại Phố Wall từ chối và John Slate, vốn làm việc ở hãng hàng không Pan Am. Flom là cộng sự của họ. Họ có một văn phòng nhỏ xíu trên tầng chóp của tòa nhà Lehman Brothers ở Phố Wall. "Chúng ta chuyên về lĩnh vực luật nào?" Flom nói rồi cười vang. "Bất cứ vụ nào đến tay!”
Đến năm 1954, Flom đảm nhận vị trí quản lý cho Skadden, và hãng luật của họ bắt đầu phát triển mạnh. Rất nhanh chóng, công ty có một trăm luật sư. Rồi hai trăm. Khi đạt tới con số ba trăm, một trong số các cộng sự của Flom - Morris Kramer đến gặp Flom và bày tỏ rằng ông cảm thấy rất tội lỗi vì đã tuyển vào những người trẻ tuổi mới tốt nghiệp từ trường luật. Hãng Skadden phát triển quá mạnh, Kramer nói, đến mức khó lòng tưởng tượng nổi công ty sẽ phát triển hơn như thế để có thể đề bạt bất cứ ai trong số những nhân viên ấy. Flom nói với Kramer, "Có sao đâu, chúng ta sẽ tăng lên thành một nghìn nhân viên." Flom chẳng bao giờ thôi tham vọng.
Ngày nay hãng Skadden, Arps đó đã trở thành một trong những hãng luật lớn và quyền lực nhất thế giới, có gần hai nghìn luật sư tại hai mươi ba văn phòng trên khắp thế giới, và thu về hơn 1 tỷ đô la mỗi năm. Trong văn phòng của mình, Flom trưng ảnh ông chụp với tổng thống George Bush (cha) và Bill Clinton. Ông sống trong căn hộ rộng thênh thang thuộc một tòa nhà xa hoa ở khu thượng Manhattan. Trong suốt gần ba mươi năm, nếu một công ty nào đó nằm trong danh sách Fortune 500 sắp bị thôn tính hay đang định thôn tính ai đó, hoặc đơn giản là một nhân vật tai to mặt lớn trong lĩnh vực nào đó gặp rắc rối, Joseph Flom ắt hẳn phải là luật sư còn Skadden, Arps là hãng luật đại diện cho họ - nếu không phải thế, công ty đó chắc hẳn phải ước giá mà được Skadden, Arps bảo vệ.
Tôi hi vọng bây giờ bạn đang hoài nghi về kiểu câu chuyện thế này. Một đứa trẻ nguồn gốc nhập cư thông minh vượt qua đói nghèo và Đại khủng hoảng, không thể tìm nổi một công việc tại những hãng luật cổ hủ hẹp hòi nơi thành thị, tự làm nên nghiệp lớn dựa vào cạnh tranh và năng lực thực sự. Đó là một câu chuyện từ khốn khó đi lên giàu sang, và tất cả những gì chúng ta học được cho đến lúc này từ các tuyển thủ khúc côn cầu, các tỷ phú phần mềm cho tới Nhóm Mối đều gợi ra một điều: thành công không diễn ra theo cách đó. Những người thành đạt không làm nên mọi thứ một mình. Việc họ xuất thân từ đâu là rất quan trọng. Họ không phải là sản phẩm của những nơi chốn và môi trường riêng biệt nào đó.
Cũng giống như cách chúng ta tìm hiểu về Bill Joy và Chris Langan, hãy bắt đầu với Joseph Flom, lần này vận dụng tất cả những gì chúng ta đã thu nhận được từ bốn chương đầu tiên của cuốn sách này. Không nói thêm gì nữa về trí thông minh, tính cách hay tham vọng của Joe Flom, mặc dù hiển nhiên là ông có thừa ba yếu tố này. Không cần thêm bất cứ lời khen ngợi nào từ các khách hàng về tài năng thiên bẩm của Flom. Không thêm bất cứ câu chuyện màu mè nào về cái sự nổi như cồn của hãng Skadden, Arps, Slate, Meagher & Flom.
Thay vào đó, tôi sẽ kể một loạt câu chuyện góp nhặt từ thế giới dân nhập cư New York - nơi Joe Flom đã lớn lên - theo lời của một bạn học trường luật, một cặp cha con tên gọi Maurice và Mort Janklow, cặp vợ chồng đặc biệt Louis và Regina Borgenicht - với hi vọng giải đáp được một câu hỏi then chốt: Những cơ hội của Joe Flom là gì? Bởi chúng ta biết rằng Những kẻ xuất chúng luôn nhận được sự giúp đỡ trên con đường lập thân lập nghiệp, liệu chúng ta có thể rà soát trong hệ sinh thái bao quanh Joe Flom và nhận diện những điều kiện đã góp phần định hình nên chính anh?
Chúng ta cứ kể những câu chuyện từ khốn khó trở thành giàu có bởi chúng ta cảm thấy điều gì đó thật cuốn hút trong ý tưởng về một người anh hùng đơn thương độc mã chiến đấu ngoan cường trước nghịch cảnh áp đảo. Nhưng câu chuyện thật về cuộc đời Joe Flom hóa ra lại hấp dẫn hơn nhiều so với phiên bản đậm tính thần thoại bởi tất cả những điều có vẻ là bất lợi trong cuộc đời - rằng ông là đứa trẻ nghèo khó sinh trưởng trong giới công nhân may; rằng ông là người Do Thái giữa thời buổi dân Do Thái bị phân biệt đối xử nặng nề; rằng ông lớn lên trong giai đoạn Đại khủng hoảng - thì trái với dự tính, lại trở thành những lợi thế của ông. Joe Flom là một kẻ xuất chúng. Nhưng ông không phải một kẻ xuất chúng bởi những lý do như bạn thường nghĩ, và câu chuyện về sự quật khởi của Joe là một hình mẫu để thấu hiểu sự thành công trong ngành luật. Thực ra, đến cuối chương này, chúng ta sẽ thấy rằng hoàn toàn có thể lấy bài học của Joe Flom để áp dụng cho thế giới luật gia ở New York, và dự đoán hoàn cảnh gia đình, tuổi tác và nguồn gốc của những luật sư quyền lực nhất trong thành phố, mà không cần biết đến bất cứ một chi tiết phụ trợ nào về họ. Nhưng trước hết chúng ta đi tiếp đã.
Bài học số Một: Tầm quan trọng của việc là một người Do Thái
Alexander Bickel là một trong những bạn học của Joe Flom tại Trường Luật Harvard. Cũng như Flom, Bickel là con trai một gia đình Do Thái nhập cư từ Đông Âu và sống ở Brooklyn. Giống như Flom, Bickel từng học tại trường công ở New York và tiếp đến là Trường City (CCNY – một trong những cơ sở giảng dạy sau đại học thuộc Đại học New York). Giống như Flom, Bickel cũng là ngôi sao sáng trong lớp học ở trường luật. Thực ra, nếu sự nghiệp không bị cắt ngang bởi căn bệnh ung thư, Bickel có lẽ đã trở thành chuyên gia về hiến pháp xuất sắc nhất trong thế hệ của ông. Cũng giống như Flom và các bạn học cùng lớp còn lại ở trường luật, Bickel đã đến Manhattan trong suốt "mùa tuyển dụng" dịp lễ Giáng sinh hồi năm 1947 để tìm việc.
Điểm dừng chân đầu tiên của Bickel là ở hãng luật Mudge Rose của Phố Wall, một nơi cũng truyền thống và cũ kỹ như bất cứ hãng luật nào thời bấy giờ. Mudge Rose được thành lập từ năm 1869. Đó chính là nơi Richard Nixon hành nghề nhiều năm trước khi đắc cử tổng thống Mỹ vào năm 1968. "Chúng tôi giống như một quý bà chỉ muốn tên mình xuất hiện trên mặt báo hai lần - khi ra đời và lúc chết đi," một trong những thành viên chủ chốt của Mudge Rose đã ví von đầy chuẩn xác về phương châm hoạt động của hãng. Bickel được dẫn đi vòng quanh công ty và bị hết người này đến người kia phỏng vấn, cho đến khi ông được đưa đến thư viện để trình diện trước một trong những luật sư chủ chốt của hãng. Bạn có thể tưởng tượng ra khung cảnh đó: một căn phòng tường ốp tối màu, tấm thảm Ba Tư tinh xảo đã sờn, những tuyển tập luật bìa da chất chồng lớp lớp, những bức tranh màu dầu họa chân dung quý ông Mudge và quý ông Rose trên tường (tức là hai người sáng lập nên hãng luật này - ND).
Nhiều năm sau Bickel kể lại, "Sau khi họ dẫn tôi qua cả buổi phỏng vấn và mọi thứ khác, tôi được đưa đến (chỗ luật sư thành viên chính), người lãnh trách nhiệm nói với tôi rằng với một người có lai lịch như tôi", - bạn có thể tưởng tượng được Bickel ắt hẳn phải ngừng lời trước khi nhắc lại cụm uyển ngữ chỉ thân phận nhập cư của ông, - "đương nhiên sẽ tiến xa. Nhưng tôi buộc phải hiểu rằng khả năng tuyển dụng một kẻ có lai lịch như tôi vào một hãng luật như thế là ít ỏi tới cỡ nào. Và trong khi ông ta chúc mừng những tiến bộ của tôi, tôi nên hiểu là đương nhiên ông ta không thể nhận tôi vào làm. Tất cả bọn họ đều rất vui mừng được gặp tôi và chỉ thế mà thôi."
Có thể thấy rõ ràng từ bản sao những hồi tưởng quá khứ của Bickel rằng người phỏng vấn ông thực sự chẳng biết phải xử trí ra sao với thông tin ấy. Tính đến thời điểm buổi phỏng vấn, Bickel đã ở đỉnh cao thanh danh. Ông đã tham gia tranh tụng cho vụ án tại Tòa án Tối cao. Ông đã chấp bút cho những cuốn sách nổi tiếng nhất. Việc Mudge Rose nói không với Bickel bởi "lai lịch" của ông giống hệt việc Chicago Bulls từ chối Michael Jordan bởi họ chẳng lấy làm thích thú với những anh chàng da đen đến từ khu Bắc Carolina. Điều đó thật vô nghĩa.
"Nhưng với những siêu sao thì thế nào?" người phỏng vấn hỏi lại, ý rằng: Liệu họ có dành ngoại lệ nào cho anh không?
Bickel: "Siêu sao, nhưng vẫn là người nhập cư thôi ..." Vào thập kỷ 1940 và 1950, những hãng luật lâu đời của
New York hoạt động như một câu lạc bộ tư vậy. Họ đều
đặt trụ sở tại những tòa nhà sang trọng, mặt tiền ốp đá granite ở trung tâm Manhattan, ngay Phố Wall. Các thành viên ở những hãng luật hàng đầu đều tốt nghiệp từ những trường thuộc nhóm Ivy League, lui tới những nhà thờ giống nhau, và cùng nghỉ hè tại những thị trấn ven biển ở Long Island. Họ vận những bộ vest xám màu thủ cựu. Mối hiệp đồng cộng tác giữa họ được biết tới như là những hãng "giày trắng"23 - rõ ràng là ám chỉ những kẻ vận đồ trắng bảnh tỏn ở các câu lạc bộ điền dã hoặc tiệc coctail, và họ rất khắt khe với những người họ tuyển vào. Như trong nghiên cứu về giới làm công việc pháp lý thời bấy giờ, Erwin Smigel viết trong tác phẩm The Wall Street Lawyer (tạm dịch: Luật gia Phố Wall): Bọn họ tìm kiếm: những luật sư gốc Bắc Âu, có tính tình dễ chịu và vẻ bề ngoài "sạch sẽ ưa nhìn", là sinh viên tốt nghiệp từ "những trường tốt," có lai lịch xã hội và những kinh nghiệm trong các sự vụ của thế giới thượng lưu, và được phú cho sức chịu đựng to lớn. Một vị cựu trưởng khoa trường luật trong khi thảo luận về những phẩm chất mà các sinh viên cần có để giành được một công việc, đã đưa ra một bức tranh có lẽ còn thực tế hơn: "Để có được một công việc (các sinh viên) cần phải có những quan hệ gia đình đáng kể, có năng lực đáng kể và có nhân cách đáng kể, hoặc là sự kết hợp của những yếu tố này. Cái gọi là khả năng được tiếp nhận được tạo ra từ tổng hoà các yếu tố này. Nếu một người có bất cứ yếu tố nào trong số những điều này, anh ta có thể kiếm được một công việc. Nếu anh ta có được hai, anh ta được lựa chọn công việc; nếu anh ta có cả ba, anh ta có thể đi bất cứ đâu."
Tóc Bickel không chải bóng mượt. Mắt anh cũng không có màu xanh dương. Anh nói tiếng Anh với một giọng khá ứng, các mối quan hệ gia đình thì chủ yếu chỉ là con trai của ông bà Solomon và Yetta Bickel ở Bucharest, Romania, và gần đây nhất, thì ở một khu hẻo lánh ở Brooklyn. Thân thế của Flom cũng chẳng khá khẩm gì hơn. Ông nói rằng đã cảm thấy "không thoải mái" khi đến phỏng vấn ở khu trung tâm, và đương nhiên là thế thật: Flom lùn, lóng ngóng, là người Do Thái và trò chuyện với chất giọng mũi đều đều mang gốc gác Brooklyn, và bạn có thể tưởng tượng ra Flom bị đánh giá ra sao qua con mắt của một kẻ tóc bạch kim vốn con nhà trâm anh thế phiệt. Nếu bạn không có được gốc gác, tôn giáo và tầng lớp xã hội tốt và bạn lại tốt nghiệp từ trường luật vào thời bấy giờ, bạn sẽ phải xin vào một hãng luật nhỏ hơn, một hãng hạng hai, kiểu mới phất lên còn xa mới sánh kịp những tên tuổi ghê gớm ở khu trung tâm, hoặc đơn giản là bạn phải tự gây dựng việc làm ăn cho mình và nhận "bất cứ vụ nào đến tay" - bất cứ sự vụ dính dáng đến pháp lý nào mà những hãng đình đám ở khu trung tâm không thèm đếm xỉa đến. Điều đó có vẻ bất công khủng khiếp. Nhưng giống như trường hợp rất hay xảy ra với những kẻ xuất chúng, việc nắm bắt lấy một khoảng lùi tạm thời như thế chính là một cơ hội bằng vàng.
23 Trong nguyên tác, Mancolm Gladwell sử dụng cụm white-shoe firms, đây là từ lóng chỉ những công ty môi giới kinh doanh cực lực phản đối những phương thức mua lại, sát nhập thô bạo. Từ “white-shoe” (giày-trắng) trong cụm này bắt nguồn từ thực tế trong những năm 1950, đi giày trắng là một trong những tiêu chí bắt buộc về trang phục đối với những người thuộc giới tinh hoa xã hội. Để đảm bảo tính hình tượng và ý vị châm biếm của thuật ngữ này, chúng tôi dịch là các hãng giày-trắng, ND.
Những công ty luật kỳ cựu ở Phố Wall có ý niệm rất rõ ràng về vai trò của họ. Họ là các luật sư hợp thành liên đoàn. Họ đại diện cho những tập đoàn lớn và danh tiếng nhất nước Mỹ, và "đại diện" đồng nghĩa với việc họ giải quyết các công việc liên quan đến thuế má và pháp lý đằng sau việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, đảm bảo rằng các khách hàng của mình không đâm bổ vào các cơ quan liên bang. Họ không tiến hành các vụ kiện tụng, tranh chấp; đúng thế, rất ít hãng luật có riêng một bộ phận chuyên trách tranh tụng và đệ trình các vụ kiện cáo, tố tụng. Như lời của Paul Cravanth - một trong những sáng lập viên của hãng Cravath, Swaine & Moore - hãng luật thuần kiểu "giày-trắng" - đã có lần diễn đạt như thế này, công việc của luật sư là dàn xếp các tranh chấp trong phòng hội nghị chứ không phải ở phòng xử án. "Trong số các bạn học của tôi ở Harvard, công việc mà những người trẻ trung sáng sủa nhất làm là liên quan đến chứng khoán hoặc thuế ," một hội viên thuộc một hãng giày-trắng khác nhớ lại. "Đó là những lĩnh vực sang trọng, danh giá nhất. Kiện tụng chỉ là thứ dành cho hạng vai u thịt bắp, không dành cho những người nghiêm túc. Thời bấy giờ các tập đoàn không kiện cáo lẫn nhau."
Lĩnh vực mà các hãng luật kỳ cựu cũng không động đến chính là việc tham gia vào những vụ thôn tính công ty thô bạo. Việc đó thật khó mà tưởng tượng trong thời buổi ngày nay, khi mà những kẻ săn tìm công ty và những doanh nghiệp cổ phần tư nhân mải miết nuốt chửng hết công ty này đến công ty khác. Nhưng cho tới trước thập niên 1970, sẽ là trái đạo lý nếu một tập đoàn mua lại một tập đoàn khác trong khi đối tượng không mong muốn. Những nơi như Mudge Rose hay các công ty luật khác ở Phố Wall sẽ không nhận những vụ làm ăn kiểu vậy.
"Vấn đề với các vụ thôn tính thô bạo chính là ở chỗ chúng thô bạo," Steven Brill - người sáng lập ra tờ tạp chí thương mại American Lawyer nói. "Như thế là không nam nhi đại trượng phu. Nếu người bạn thân nhất ở trường Princeton của bạn đang là CEO của Công ty X, anh ta đã bị tuột dốc suốt một thời gian dài, một kẻ săn công ty nào đó xuất hiện và nói rằng công ty này chán quá, nó làm anh thấy thấp thỏm không vui. Bạn sẽ nghĩ là, nếu anh ấy ra đi, thế thì có lẽ tôi cũng ra đi. Đó chính là toàn bộ ý niệm về việc không làm xáo trộn sự yên tĩnh cơ bản và trật tự ổn định của mọi thứ."24
Thứ công việc "đến tay" đối với thế hệ luật sư người Do Thái đến từ Bronx và Brooklyn hồi những năm 1950 và 1960, chính là những sự vụ mà các hãng luật giày-trắng coi rẻ: các vụ kiện tụng tranh chấp và quan trọng hơn, là "những cuộc tranh đấu bằng ủy quyền" (proxy fights) - những thủ đoạn pháp lý ở trung tâm của các cuộc đấu thầu mua lại thô bạo. Một nhà đầu tư có hứng thú với một công ty nào đó; anh ta sẽ tố cáo ban quản lý là bất tài vô dụng và gửi thư đến các cổ đông, cố gắng lôi kéo họ trao cho anh ta "sự ủy quyền" để anh ta có thể bỏ phiếu đánh bật ban lãnh đạo công ty. Và để thực hiện cuộc tranh đấu bằng ủy quyền như thế, luật sư duy nhất mà nhà đầu tư có thể trông cậy được là một nhân vật kiểu như Joe Flom.
24 Luật sư và tiểu thuyết gia Louis Auchincloss - một người thuộc về giới luật sư giày-trắng dòng dõi Anglo-Saxon da trắng theo đạo Tin Lành ở New York, trong cuốn sách The Scarlet Letters của mình đã có một cảnh nắm bắt trọn vẹn mối ác cảm mà các hãng luật ở trung tâm New York dành cho các vụ thôn tính công ty. "Hãy đối mặt với chuyện đó đi, bạn thân mến, tôi và chồng chị đang điều hành một công ty gồm toàn những kẻ vô lương tâm," một luật sư chuyên trách các vụ mua lại giải thích với hôn thê của người cộng sự.
Ông nói tiếp: "Ngày nay khi một ai đó có ý muốn chiếm lấy một công ty không hề tự nguyện bị mua lại, nhà tư vấn của người đó sẽ bày ra đủ hình thức kiện tụng phiền nhiễu để xui khiến công ty kia phải thay đổi quyết định. Chúng tôi thưa kiện vì việc điều hành kém của ban giám đốc, vì các khoản lãi cổ tức chưa được thanh toán, vì việc vi phạm nội quy, vì phát hành cổ phiếu sai lầm. Chúng tôi lấy dẫn chứng là việc quản lý kém gây hậu quả; chúng tôi gào lên về chống độc quyền; chúng tôi tố cáo những khoản nợ lưu cữu và không minh bạch. Và nhà tư vấn của đối thủ chúng tôi sẽ đáp lời bằng những yêu cầu quá quắt đối với những đệ trình từ phía chúng tôi, tìm kiếm những chất vấn liên miên không dứt nhằm đẩy khách hàng của tôi vào cái bẫy giấy tờ quan liêu rối bòng bong tuyệt vọng... Đó đơn thuần là cuộc chiến, và bạn biết đặc trưng của nó ra sao và yêu quý nó.”
Trong cuốn Skadden, nhà sử học pháp lý Lincoln Caplan đã miêu tả thế giới những cuộc thao túng công ty thuở sơ khởi:
Người chiến thắng trong một cuộc tranh đấu bằng ủy quyền được quyết định tại “hang rắn” (Cách gọi chính thức phải là “phòng tài vụ”.) Luật sư của mỗi bên gặp gỡ các thanh tra viên, công việc chính là chấp nhận hoặc bác bỏ những ủy nhiệm có vấn đề. Sự vụ này thường diễn ra khá suồng sã, dễ sinh sự và rất sôi nổi. Các đối thủ đôi khi vận T-shirt, ăn dưa hấu hoặc chia sẻ với nhau một chai rượu scotch. Có những vụ hiếm hoi, kết quả của vòng đấu “hang rắn” lại thay đổi cả kết cục cuối cùng của phi vụ và dẫn tới phải phán xử bằng một lá thăm duy nhất.
Các luật sư thường cố gắng định đoạt một buổi tranh đấu như thế bằng cách sắp xếp triệu tập những thanh tra viên vốn chịu ơn họ; các thanh tra viên thông thường hút những điếu xì gà mà hai bên mời. Luật sư của ban quản trị công ty phản đối việc ủy quyền của phía đối thủ (“Tôi thách thức việc này!”) và ngược lại… Các luật sư giành thế thượng phong trong vòng “hang rắn” này thường vượt qua được lời phản đối đó. Có những luật sư nắm rõ các quy tắc của cuộc tranh đấu ủy quyền, nhưng không ai có thể cừ khôi hơn Joe Flom trong mỗi cuộc chiến …
Flom béo (phát phì tới hơn một trăm cân Anh, một luật sư từng kể lại…), dáng vẻ kém hấp dẫn (trong mắt một cộng sự, Flom giống như con ếch vậy) và bàng quan với lối ứng xử xã hội tế nhị (ông ta sẽ trung tiện ngay ở chốn công cộng hoặc phả khói xì gà vào mặt người đối thoại mà không thèm xin lỗi). Nhưng theo đánh giá của các bạn học và một vài đối thủ, ý chí chiến thắng của Flom là không thể vượt qua và ông luôn rất xuất sắc.
Các hãng luật giày-trắng cũng sẽ vời đến Flom bất cứ khi nào có một kẻ săn tìm công ty tiến hành tấn công một trong những khách hàng của họ. Họ sẽ không động chạm gì vào sự vụ hết. Nhưng họ rất vui lòng được chuyển vụ việc sang cho hãng Skadden, Arps. "Chuyên môn ban đầu của Flom chính là các vụ tranh đấu bằng ủy quyền, và đó không phải thứ chúng tôi làm, cũng giống như là chúng tôi không tiếp nhận những sự vụ liên quan đến hôn nhân vậy," Robert Rifkind, một luật sư thành viên lâu năm của hãng Cravath, Swaine & Moore đã nói. "Và thế là chúng tôi không có mong muốn biết thêm gì về việc đó. Tôi vẫn nhớ một lần chúng tôi gặp sự vụ liên quan đến tranh chấp bằng ủy quyền, một trong những cộng sự cao cấp của hãng tôi nói rằng, được rồi, lôi Joe vào. Anh ta bước vào một phòng hội nghị, chúng tôi ngồi xung quanh trình bày vấn đề, anh ta bày cho chúng tôi cách phải làm gì và bước ra. Tôi nói, 'Chúng ta cũng có thể làm như thế mà, anh biết chứ.' Và người cộng sự của chúng tôi nói ngay, 'Không, không, không, không được. Chúng ta không làm việc đó đâu.' Chỉ đơn giản bởi chúng tôi không làm những việc đó."
Và rồi đến thập niên 1970. Mối ác cảm dai dẳng đối với các vụ kiện tụng đã phải chấp nhận thất bại. Việc vay mượn tiền bạc dễ dàng hơn, luật lệ liên bang được nới lỏng, thị trường trở nên quốc tế hóa. Các nhà đầu tư quyết liệt hơn và kết quả là một đợt bùng nổ cả về số lượng và quy mô các cuộc thôn tính công ty. "Những năm 1980, nếu anh đến dự Bàn tròn Doanh nghiệp (hiệp hội các lãnh đạo tập đoàn chính yếu của Hoa Kỳ) và lấy ý kiến thăm dò xem liệu các cuộc thôn tính thô bạo có nên được cho phép hay không, hai phần ba sẽ nói Không," Flom kể. "Giờ đây, cuộc bỏ phiếu sẽ gần như đồng lòng nhất trí rằng Có." Các công ty cần phải được bảo vệ trong các cuộc kiện tụng chống lại địch thủ của mình. Những kẻ kiện tụng thô bạo cần phải bị trả đòn. Những nhà đầu tư muốn ăn tươi nuốt sống những đối thủ tỏ ý không vừa lòng cũng cần đến sự giúp đỡ cho chiến lược pháp lý của mình, và các cổ đông thì cần đến người đại diện chính thức. Số tiền trả cho các sự vụ này ngày càng lớn. Từ giữa thập niên 1970 cho đến cuối những năm 1980, khoản tiền đổ vào các vụ sáp nhập và mua lại công ty hàng năm ở Phố Wall đã tăng lên 2.000%, đạt đỉnh điểm là xấp xỉ một phần tư nghìn tỷ đô-la.
Vậy là những sự vụ mà các hãng luật kỳ cựu không muốn động tay vào - những vụ thôn tính công ty và kiện tụng thô bạo - giờ đây trở thành công việc mà mọi hãng luật đều muốn làm. Và chuyên gia trong hai lĩnh vực pháp lý trở nên cộm cán như vậy là ai? Chính là những công ty luật có thời chỉ chầu rìa và xếp vị trí thứ cấp, được khởi dựng bởi những người không thể kiếm được công việc nào tại các hãng luật khu trung tâm thành phố hồi mười hay mười lăm năm trước đó.
"(Các hãng giày-trắng) vẫn không quan tâm tới các vụ thôn tính, sáp nhập khi cuộc chơi đã vào hồi khá rôm rả. Tới lúc họ quyết định rằng có lẽ nên tham gia vào việc làm ăn đó, thì chúng tôi đã tung hoành lâu lâu rồi," Flom nói. "Và một khi bạn đã gây dựng được tiếng tăm trong việc thực hiện những sự vụ kiểu ấy, công việc sẽ tìm đến bạn đầu tiên."
Thử nghĩ xem điều này gần gũi ra sao với những câu chuyện của Bill Joy và Bill Gates. Cả hai người bọn họ đều đã làm việc cực nhọc trong một lĩnh vực khá vô danh tiểu tốt mà chẳng mấy hi vọng to tát đạt được thành công thực tế. Nhưng rồi - BÙM! - cuộc cách mạng máy tính cá nhân nổ ra, và hai người họ đã có sẵn mười nghìn giờ tích lũy trong tay. Họ đã sẵn sàng. Flom cũng có trải nghiệm tương tự. Suốt hai mươi năm ông đã mài giũa hoàn thiện nghề nghiệp của mình tại Skadden, Arps. Rồi thế cuộc đổi thay và ông đã sẵn sàng. Ông không hề chiến thắng nghịch cảnh. Thay vào đó, thứ ban đầu vốn là nghịch cảnh cuối cùng lại trở thành một cơ may.
"Không phải mấy người đó là những luật sư thông minh xuất chúng gì," Rifkind nói. "Chỉ là bởi họ có một kỹ năng vốn được trui rèn suốt bao nhiêu năm - đột nhiên lại trở nên rất có giá trị."25
25 Eli Wald, một nhà luật học, đã thực hiện một phân tích để hiểu rõ cách thức nào khiến một vận rủi lại trở thành cơ may cho các luật sư người Do Thái
Đọc tiếp phần II
** Để thuận tiện cho xuất bản nên tôi tách làm 2 phần
No comments:
Post a Comment