Chân dung |
Chương XII
CUỘC VIỄN CHINH THỨ NHẤT: TÀN PHÁ TÂY – HẠ
Lãnh thổ Mông-cổ bây giờ tiếp giáp với ba nước lớn: phía Đông và Đông Nam, sau dãy Vạn lý trường thành là Đại-Kim đang thời kỳ cường thịnh; phía Nam là nước Tây-Hạ; phía Tây bên kia núi Pamir là đế quốc Tây-Liêu.
Để chuẩn bị cuộc xâm lăng, bộ Tổng tham mưu Mông-cổ thả rất nhiều điệp viên qua ba nước ấy dò la thực lực, quan sát binh tình.
Lúc ấy Tây-Liêu đang ở dưới quyền cai trị của một hoàng đế lão nhược không thích gây hấn với ai nữa. Nhưng bọn thái thú của ông ta rất hà khắc khiến cho dân các xứ phiên thuộc như Thổ-phồn hết sức ca thán. Trong thời kỳ này quân Mông-cổ đã tiến sâu vào vùng núi Altai, đánh đuổi khả hãn Bui-Rúc chấm dứt cuộc đô hộ Nãi-man, nước Thổ-phồn mới mở rộng ra từ biên giới Mông-cổ đến Tây-Liêu. Thành Cát Tư Hãn gởi một sứ bộ qua Thổ-phồn gọi vua I-Di-Cút hãy qui phục Mông-cổ. Nhà vua liền gởi đồ cống hiến đến trước rồi đích thân tới Mông –cổ xin làm phiên thần.
Dân Tây-Hạ thuộc giống Tây-tạng, xưa kia là bộ lạc Thát-bạt chiếm khu vực A-la-chan và Ordos, đời Đường qui phụ Trung-hoa nhưng người em chú bác lại hàng Liêu được phong Hạ-vương. Vua Tống cho Kế-Bổng dụ Kế-Thiên bỏ Liêu theo Tống, nhưng chẳng bao lâu hai anh em đều phản Tống. Kế-Bổng bị bắt, Kế-Thiên chiếm Linh-châu làm căn cứ. Truyền xuống đời cháu là Nguyên-Hạo một tay hùng kiệt nhiều mưu lược, thu dụng văn minh Trung-hoa, đánh chiếm 18 châu ở Hà-tây (thuộc các tỉnh Thiểm-tây, Cam-túc và một phần đất Tân-cương ngày nay) định đô ở Ninh-hạ, quốc hiệu Đại-Hạ. Vua Tống phong Tây-Hạ quốc vương.
Sau hồi chiến thắng Nãi-man, Thành-Cát Tư-Hãn mới biết rõ Tây-Hạ qua kinh nghiệm bản thân. Ông xua quân đột kích vào vùng biên cảnh xứ nầy đốt phá mấy làng, thấy dân tộc này là dân đô thị không quen chinh chiến. Kị binh Mông-cổ đã xéo tan đám bộ binh chuyên phóng lao của họ, nhưng không muốn vào sâu hơn nữa, Đại-Hãn cho rút quân về. Cho nên người Tây-Hạ không cho là quan trọng, họ quan niệm như một cuộc quấy nhiễu cướp bóc thông thường của dân du mục.
Nước láng giềng thứ ba là đế quốc Kim sau dãy Trường-thành. Dân Kim thuộc giống người Nữ-chân (Djurtchat) xuất phát ở thượng lưu sông Amour, là một dân tộc mạnh mẽ, chất phát. Thời ấy nước Liêu cho Hoàng-Nhan Ô-Cốt-Nãi làm tiết độ sứ đất Nữ-chân. Ô-Cốt-Nãi truyền xuống 5 đời đến Ô-Cốt-Dã thì phản Liêu, chiếm miền Đông bắc tỉnh Cát-lâm ngày nay, xưng đế gọi là nước Kim. Ít lâu sau Kim lại xua quân đánh chiếm nước Liêu, hạ thành Yên-kinh (1125). Diệt Liêu rồi Kim lại xua quân đánh Tống, vây hãm kinh đô, vua Khâm-Tông phải nhường đất, nạp cống phải gọi vua Kim bằng bác, gởi thân vương, tể tướng làm con tin. Nhưng chưa đầy một năm quân Kim lại hãm kinh thành, lập Trương-Bang-Xương làm Sở đế rồi bắt vua Khâm-Tông cùng hoàng gia về Bắc, Trương-Bang-Xương lui về đóng đô ở Lâm-an (Chiết-giang) đó là vua Cao-Tông nhà Nam-Tống. Bây giờ nước Kim chiếm cả miền Bắc Trung-quốc gồm có Đông tam tỉnh, các tỉnh ở lưu vực Hoàng-Hà, tỉnh Giang-tô, tỉnh An-huy và dãy đất phía Bắc sông Hoài, đóng đô ở Yên-kinh (Bắc-kinh).
Ngoài những báo cáo tỉ mỉ, đầy đủ chi tiết của bọn điệp viên, Thành-Cát Tư-Hãn còn đặc biệt chú trọng đến những lời tường thuật của bọn thương nhân. Trong Kim trướng đại hãn nhắp koumiss yên lặng, chăm chú nghe họ kể từ những kỳ lạ này đến kỳ lạ khác: những cái cầu đá bắc ngang sông; những chiếc thuyền cao rộng ngược xuôi trên dòng nước. Hạng giàu có không cỡi ngựa mà ngồi trên những chiếc xe chạm trỗ vàng son… Tất cả những gì bày ra ở nước Kim đều lộng lẫy, ngoạn mục không thể tưởng tượng được. Chẳng những giàu sang, hoa lệ nước Kim còn hùng mạnh nữa. Thành thị của họ rộng lớn vô cùng chứa không biết bao nhiêu dân chúng mà kể, có thể nói tất cả dân Mông-cổ tụ họp lại chỉ mới đủ cho một thành mà thôi. Những đô thị ấy đều bao bọc bằng một vòng tường thành vĩ đại, cao ngất, không có con ngựa nào trên thế gian này vượt qua được, cũng không có kẻ địch nào trèo qua nổi. Mỗi đô thị chỉ bắt một người dân đi lính thôi, hoàng đế nước ấy sẽ có một đạo quân đông gấp mấy lần quân đội Mông-cổ. Họ có những cây cung phải 20 người giương mới nổi, những chiến xa tới 20 con ngựa kéo. Lúc giao chiến họ phóng lửa vào quân địch, tiếng nổ như sấm sét, vật gì cũng bị phá tan thành mảnh vụn…
Càng nghe nhiều về câu chuyện của bọn thương nhân, Thành-Cát Tư-Hãn càng lo lắng nghĩ ngợi vì họ thuật đúng như báo cáo của điệp viên: những phương tiện chiến tranh của hoàng đế Kim thật không có cách gì phá được; quân đội nhiều vô tận, thành trì bất khả xâm, vũ khí muôn trùng không đếm xiết.
Mà chủ trương của ông thì phải đánh nước Kim, phải liều với họ một trận giặc vì lẽ sống còn. Có điều khó hiểu là tại sao lần này nước Kim để yên cho ông thống nhất lực lượng du mục vì từ mấy trăm năm qua đế quốc này luôn luôn phá hoại sự đoàn kết của dân tộc ở lều. Họ cứ liên kết bộ lạc này để tiêu diệt bộ lạc khác. Với chiến thuật ấy họ diệt ngay từ lúc nẩy mầm lực lượng nào có cơ phát triển. Họ đã đầu độc khả hãn Ka-Buôn, giết khả hãn Ka-Tuôn, xử cực hình hai khả hãn khác trong tộc Bọt-Di-Dinh chỉ vì những vị chúa nói trên đã qui tụ được một số bộ lạc đông đảo.
Thật ra lần này cuộc diện ở mạn Bắc thay đổi quá nhanh chóng khiến nước Kim không dở trò gì được. Thành-Cát Tư-Hãn lần lượt chiến thắng những kẻ địch mà bọn tướng lãnh Kim ngỡ rằng bọn ấy mạnh hơn và nguy hiểm hơn ông, như Tô-Ha-Rin, Tút-Sa-Bét, Bai-Bu-Ka. Họ đã đánh giá ông sai lầm, nên sau bức Trường thành họ chểnh mảng trong việc tung ra những âm mưu có thể đưa ông đến chỗ thất bại. Đến lúc ông tiêu diệt hết kẻ địch, sự thống nhất Mông-cổ đến tai họ một cách bất ngờ như một tiếng sét. Mãi đến sau cùng hoàng thân Vĩnh-Tế mới làm cuộc hành trình gần hai ngàn dặm qua sa mạc để xem sự gì đã xảy ra thì đã quá muộn. Không còn một bộ lạc nào mà nước Kim có thể kéo bè về với mình được. Bây giờ muốn dẹp ông, nước Kim phải xua quân qua sa mạc mới được. Nhưng ông đã biết rõ thứ quân đội này hồi 10 năm về trước lúc đánh quân Thát-đát. Họ muốn tới thì cứ tới…
Thật ra chính cái quỉ quyệt của bọn cầm quyền nước Kim đã làm cho Thành-Cát Tư-Hãn lo ngại. Không những họ che chở ủng hộ bọn bất mãn, mà còn gieo sự bất mãn xúi giục, thúc đẩy bọn này nổi loạn. Đáng lo nhất là mấy vương tử chẳng biết có duy trì nổi kỷ luật sắt đối với đám thân vương hay không vì đám này dễ bị cám dỗ, thiếu kiên nhẫn trước những áp lực? Bọn Kim nếu mưu chia rẽ mấy người con của ông ra bằng cách phong chức tước, hứa hẹn lạc quan, chẳng biết chúng nó có đủ trí khôn ngoan để đương đầu lại không? Tây-liêu và Tây-hạ không phải là thứ láng giềng nguy hiểm. Chỉ có đế quốc Kim hễ ngày nào còn bênh cạnh là Mông-cổ còn bị mối đe dọa nặng nề.
Vì những lẽ trên mà Thành-Cát Tư-Hãn cương quyết phát động một cuộc chiến tranh qui mô, một cuộc chiến tranh để giải quyết dứt khoát vấn đề với nước Kim. Nhưng qua những tin tức ông thấy rõ quân đội Mông-cổ chưa đủ tiềm lực, chưa sẵn sàng để tiến tới một trận chiến định đoạt. Cho nên với tất cả sự lo xa và dè dặt, Thành-Cát Tư-Hãn bắt đầu một cuộc chuẩn bị chu đáo cho chiến cuộc khốc liệt sau này.
Tây-hạ là một nước có thành trì, có quân đội vũ trang và được huấn luyện theo Trung-quốc. Đại hãn nhận thấy thượng sách là đem quân lực của mình thử sức trước ở tại nước này đồng thời để rèn luyện binh sĩ quen với chiến thuật công thành.
Ông liền xua đoàn kị binh tiến vào Tây-hạ, đánh tan đạo quân ra nghinh chiến, tràn vào một ít làng nhỏ và tiến tới trước thành Wolohai, một cái thành kiên cố. Khi thế đang hăng, quân Mông-cổ liền ào tới hãm thành. Họ tấn công nhiều đợt liên tiếp nhưng đều thất bại nặng. Sau cùng Thành-Cát Tư-Hãn đích thân chỉ huy tung ra một đợt tấn công nữa nhưng cũng vô hiệu quả. Bấy giờ mới thấy rõ kị binh Mông-cổ không thể thành công trong lối đánh giặc này. Họ không thể kiên nhẫn chờ đợi, không biết tiến tới mục tiêu từng bước một…
Nỗi bất mãn và hoang mang lan tràn khắp các trại, nhưng đại hãn không nói tới chuyện rút quân. Sau mấy ngày tính toán ông đem áp dụng một quỉ kế: đề nghị với bọn chỉ huy trong thành nếu đem nạp gấp 1.000 con mèo và 10.000 chim én, ông sẽ hạ lịnh rút quân. Viên tướng thủ thành hết sức ngạc nhiên, không hiểu bọn rợ đòi như thế để làm gì, nhưng cũng tổ chức một cuộc lùng bắt tất cả mèo và chim én đem nạp, tuy nhiên họ rất dè dặt không dám mở cửa thành. Đại hãn đâu cần mở cửa thành làm gì nữa. Ông cho binh sĩ cột vào đuôi mỗi con vật nói trên một chùm bổi, châm lửa đốt rồi thả ra tất cả. Bị lửa đốt nóng, chim én kinh hoàng bay về chui vào các mái tranh, mèo thì chạy cuồng loạn rút vào các xó nhà. Dân chúng trong thành nhốn nháo cả lên rùng rùng đi đuổi bắt, nhưng bắt sao cho hết được. Chẳng bao lâu lửa dấy lên cháy lan tràn khắp bốn phía thì ngay lúc ấy quân Mông-cổ ồ ạt trèo vào thành.
Binh Mông-cổ reo hò vang dậy: họ đã chiếm được thành. Không có sức nào kháng cự nổi với đại hãn của họ! Họ sẽ kéo đi chiếm trọn lãnh thổ Tây-hạ!
Nhưng Thành-Cát Tư-Hãn không lạc quan như thế, vì quỉ kế này chỉ đem lại một lần thắng lợi mà thôi. Lần sau thì làm thế nào? Ông thấy rõ mình bất lực trước những bức tường thành. Cho nên quân sĩ đều ngạc nhiên không hiểu sao đại hãn không tiến binh nữa.
Trong lúc ấy vua Tây-hạ ráo riết tổ chức một đạo quân mạnh và tăng cường sự phòng thủ ở các nơi khác. Nhưng bách quan kéo tới vương cung ở Ninh-hạ đồng tâu rằng: “Chúa Mông-cổ đòi phải nạp tuế cống, ông ta mới chịu nghị hòa và rút quân ra khỏi đất nước”.
Nghe qua chúa Tây-hạ bừng bừng nổi giận, muốn bác bỏ đề nghị hỗn của dân du mục vì có bao giờ chúa tể một đế quốc rộng lớn lại chịu làm phiên thần của một tù trưởng man rợ? Bọn tướng lãnh phải nhắc cho nhà vua nhớ là chính hoàng đế Trung-quốc đã có lần phải tạm thời cống hiến bảo vật cho một vương tử Mông-cổ để họ lui quân rồi sau đó chỉnh tu binh mã đánh quật trở lại.
Thế là Tây-hạ đành chịu nghị hòa đem nạp cống phẩm, Đại hãn liền rút quân về đoàn trại. Quân sĩ Mông-cổ từ đó càng nôn nao khao khát những cuộc viễn chinh mới. Riêng Thành-Cát Tư-Hãn, ông đã thấy rõ sức mạnh của dân đô thị và nhược điểm của quân lực mình. Chỉ còn cách là phải khai thác những kinh nghiệm vừa qua.
Sau trận này Thành-Cát Tư-Hãn nhận thấy cần phải rèn luyện lại cấp lãnh đạo quân sự, tạo một tập đoàn tướng lãnh tinh thông binh pháp có đầy đủ khả năng đối phó với mọi tình thế khó khăn. Do đó tất cả tướng lãnh và tù trưởng ở các nơi đều được gọi về trung ương dự những lớp giảng về binh pháp của ông… Để ngăn ngừa sự trốn lánh, ông ra một điều luật mới ghi trong Yassa: “Ai có ý trốn tránh không tới họp mặt để nghe huấn dụ của ta, người đó sẽ lâm vào số phận của một hòn đá rơi xuống nước không ai còn thấy bóng nữa”.
Ba mươi năm sau thời kỳ mở những lớp giảng huấn nói trên, Bạt-Đô – cháu nội của Thành-Cát Tư-Hãn – tổ chức một lực lượng 600.000 người mà trong đó chỉ có một phần tư người Mông-cổ. Tất cả số người này đều giữ chức vụ chỉ huy từ hàng thập phu trưởng đến hàng cao cấp nhất. Đám thượng tướng của Bạt-Đô có thể điều khiển dễ dàng cùng một lúc nhiều chiến dịch hành quân trên một dải đất bao la từ Ba-lan đến Ba-nhĩ-cán, từ sông Dnieper đến biển Adriatique, và sau kết thúc những trận đánh rồi, các quân đoàn đều tập họp trở về đông đủ cả. Không một nhà chỉ huy quân sự nào của Âu-châu thời bấy giờ có thể làm tròn được một nhiệm vụ nặng nề phức tạp như thế.
Khóa học đầu tiên của trường quân sự Mông-cổ là khóa học về chiến thuật công thành: cách sử dụng thang dây, bao cát, cách chế tạo và sử dụng những cái mộc vĩ đại dùng để đỡ tên, cho các đội xung kích. Mỗi bộ lạc phải chế tạo một số dụng cụ cần thiết để công thành, nạp vào kho quân cụ do những sĩ quan phụ trách việc giữ gìn và phân phát lúc xuất chinh.
Trong lúc ấy đại hãn lại phong Truật-Xích làm chủ tướng cùng với Tốc-Bất-Đài và Triết-Biệt điều động một quân đoàn lên mạn Tây Bắc quét cho sạch những đám loạn quân lẻ tẻ còn sót lại ở biên cảnh Mông-cổ. Bây giờ ông khỏi cần phải thân chinh đối với những đám giặc chòm như thế; một thế hệ mới đã trưởng thành và cần học tập chiến đấu dưới sự điều khiển của các thượng tướng lão luyện. Ở ngôi đại hãn ông chỉ cần ban bố những lời khích lệ tinh thần:
- Hỡi các tướng trung thành của ta! Các ngươi là hạng sáng sủa như vầng minh nguyệt thật xứng đáng là cấp chỉ huy các binh đoàn. Các ngươi là những hột trân châu trang điểm trên mũ miện của ta! Các ngươi phải là trung tâm điểm của vũ trụ, phải là núi đá đứng sừng sững giữa trời. Hỡi ba quân đang đứng quanh ta như bức tường thành kiên cố, đội ngũ chỉnh tề như cánh rừng sậy hãy lắng nghe lời nói của ta:
Các ngươi hãy đoàn kết chặt chẽ như năm ngón tay; lúc tấn công hãy như chim ưng đáp xuống con mồi; lúc tiêu khiển hãy vũ múa như con công; lúc giao chiến hãy lao vào kẻ địch như con ó lao xuống đàn gà…
Truật-Xích thống lĩnh quân đoàn qua Nãi-man bắt tất cả những bộ lạc bất tuân phải qui phụ rồi vượt qua rặng núi Saïan đổ xuống đồng cỏ Khirghises đặt bộ lạc nầy vào vòng thống trị. Bấy giờ bộ lạc Oi-Rat đang bị quân Miệt-nhi tàn hại, liền tình nguyện dẫn đạo đi lùng kẻ thù. Chúa Miệt-nhi là Tút-Sa-Bét không còn đường né tránh nữa đành phải giao chiến, rốt cuộc bị bắt giết.
Chót hết là Gút-Sơ-Lút một kẻ thù cũ còn sống sót, chạy thoát được qua hàng Tây-liêu.
Thành-Cát Tư-Hãn rất hài lòng về chiến công của thái tử. Khi đoàn quân chiến thắng trở về ông cho tổ chức một cuộc đón rước cực kỳ long trọng, rồi ban thưởng cho Truật-Xích một hãn địa riêng. “Lần đầu tiên xuất chinh không có ta bên cạnh mà con khuất phục được các bộ lạc ở rừng không hao quân, thật đáng khen. Ta ban thưởng cho con tất cả những miền vừa mới bình định ấy.”
Món quà nầy sau trở thành một đế quốc riêng tức đế quốc Khâm sát mà các sử gia thường gọi là Kim-hãn-địa (Horde d’or) bao gồm những thái ấp của các vương tử Nga. Suốt nhiều thế kỷ đám vương tử Nga phải đến tuyên thệ trung thành trước khả hãn Mông-cổ để được sắc phong vương tước.
Hai năm sau chiến cuộc Tây-hạ bỗng có tin cấp báo về Onon: hoàng đế Kim đã băng hà, thái tử Vĩnh-Tế lên nối ngôi.
Năm đầu Tây-hạ có đem nạp cống đầy đủ nhưng qua năm sau không thấy họ tới nữa. Như thế có nghĩa là tự cho mình có đủ lực lượng đối phó rồi, nếu không vị tân vương không dám nạp cống trễ chớ đừng nói đến việc lờ đi như thế.
Thành-Cát Tư-Hãn liền vin cớ đó khởi binh tái chiến với Tây-hạ. Ngay trận đầu quân Tây-hạ bị đánh tan rã; binh Mông-cổ liền tiến chiếm thành Wolohai, đoạt thêm một thành nữa rồi vượt qua Trường thành. Tại đây binh Mông-cổ lại giao chiến với một đạo binh do một vương tử Tây-hạ chỉ huy. Quân địch bị tổn thất nặng phải rút về thành Ninh-hạ là đế đô nằm trên thượng lưu sông Hoàng-hà. Quân Mông-cổ đuổi theo và bao vây kinh thành.
Một lần nữa quân Mông-cổ đành chịu bất lực trước những vách thành kiên cố. Thật ra lúc bấy giờ họ đã tiến tới trình độ có thể chiếm những thành nhỏ, nhưng Ninh-hạ là một đô thị lớn đông dân, phòng thủ thật vững chắc không dễ gì hạ nổi. Mà thì giờ thì cấp bách, không thể chần chờ ở xứ nầy được vì Thành-Cát Tư-Hãn chỉ nghĩ tới nước Kim, muốn diệt đế quốc ấy càng sớm càng tốt. Đại hãn nghe nói người Trung quốc có chiến thuật tháo nước cho ngập thành, liền sai đi bắt một số dân Trung-quốc về bảo xây một cái đập lớn, lùa nước sông Hoàng-hà vào thành Ninh-hạ. Nhưng mới xây lên được phân nửa thì đập vỡ, nước tràn ra lụt hết cánh đồng mà quân Mông-cổ đang đóng trại. Họ phải cấp tốc cuốn lều chạy lên các đồi cao.
Tuy vậy tình thế của quân Tây-hạ cũng không có gì lạc quan hơn. Chiếm thành không được, quân Mông-cổ liền tràn ra khắp các làng mạc cướp phá tan tành; quân Tây-hạ cứ bế môn ở mãi trong thành chẳng làm gì khác hơn được. Cho nên khi quân Mông-cổ gởi sứ giả tới nghị hòa, chúa Tây-hạ mới thở ra nhẹ nhõm chấp nhận tất cả các điều kiện hết sức khắt khe: nộp tuế cống thật nặng; phải trợ lực Mông-cổ trong những cuộc chinh phạt ở các nước khác và để tỏ thiện ý, phải gả công chúa cho đại hãn (1209). Thế rồi yến tiệc mở ra linh đình mừng tình hữu nghị giữa hai nước. Xong đâu đó, Thành-Cát Tư-Hãn vội vã rút quân về.
Được nửa đường bỗng có mã khoái “Tên bay” từ miền đồng tới báo tin một đoàn sứ giả nước Kim đã tới cõi ngoài Trường thành. Đại hãn liền dừng binh đón chờ. Ông ra đứng trước lều tiếp sứ giả của vua Kim. Viên chánh sứ bảo người thông ngôn nói lại rằng “có chiếu chỉ của hoàng đế Đại kim, Đại hãn phải làm lễ bái lĩnh”.
Thành-Cát Tư-Hãn hỏi:
- Hiện giờ ai là hoàng đế nước Kim? - Làm như ông không hay biết về việc đổi ngôi.
Sứ giả trả lời:
- Hoàng đế Vĩnh-Tế.
Thành-Cát Tư-Hãn liền quay về hướng Nam, thay vì quì lạy kính cẩn, lại khạc xuống đất với vẻ vô cùng khinh bỉ.
- Ta tưởng rằng kẻ nào tự xưng là thiên tử phải là hạng khác thường; còn hèn nhát như thằng Vĩnh-Tế thì ra cái thá gì mà bắt kẻ khác phải quì lạy!
Nói xong đại hãn sai đem ngựa lại tiếp tục cuộc hành trình.
Phần viên chánh sứ, hắn quay trở về với cả một nỗi khổ tâm mong cho đường càng xa càng tốt. Hắn vò đầu bứt tóc không biết phải tâu trình như thế nào với hoàng đế về lời lẽ khinh miệt của chúa du mục. Và mặc dù đã dùng lời lẽ hết sức khéo léo che giấu bớt sự thật, hoàng đế cũng nổi cơn lôi đình lên quát vệ sĩ tống hắn vào ngục.
Rồi nhà vua hội tất cả bá quan văn võ ở Yên-kinh lại hỏi ý kiến từng người. Ý kiến rất phức tạp và trái ngược nhau. Sau cùng nhà vua mới quyết định, hạ lịnh cho các tướng:
Viên tướng chủ trương đánh phải dẫn quân đến tận sào huyệt bọn Rợ trừng phạt thẳng tay tên tù trưởng.
Viên tướng chủ trương dò xét hành động bọn Rợ phải gấp rút đào hào đắp lũy án ngữ ngoài Trường thành, tăng cường quân trú phòng ở các nơi để phòng địch đánh bất ngờ.
Mới tới sa mạc Gobi, viên tướng viễn chinh đã ngao ngán án binh tại đó rồi thả lính đi cướp lương thảo của dân Ong-Gút là dân phiên thuộc của Kim. Ngay lúc đó, thân vương Triết-Biệt được lịnh Thành-Cát Tư-Hãn dẫn 2 vạn phu xuống mạn Đông tìm họ. Quân Mông-cổ ồ ạt tấn công, đại thắng quân Kim, san bằng cái lũy vừa mới đắp lên rồi kéo dân Ong-Gút về thần phục Mông-cổ.
Sau trận nầy quân Kim mất hết nhuệ khí, tinh thần chiến đấu rã rời. Nguy hơn nữa là trận đầu của triều đại mới mà thảm bại như thế làm sụp đổ luôn lòng tin tưởng của dân chúng, cho nên hoàng đế Kim phải cho yết thị khắp nơi cấm nhặt không cho loan tin “Có quân Rợ kéo tới ngoài Trường thành”, ai vi lịnh sẽ bị cực hình.
Ít ngày sau quan trấn thủ Trường thành lại gấp rút về triều cấp báo: quân Mông-cổ đang chuẩn bị đánh lớn. Nhưng ông ta bị hoàng đế khiển trách nặng nề; ngài cho rằng ông tâu láo khoét, đế quốc Kim với Mông-cổ vẫn đang giao hảo tốt đẹp. Quan trấn thủ lại cứ quả quyết rằng quân Mông-cổ đang mài tên giũa giáo, chắc chắn sẽ có trận xâm lăng… Kết quả ông ta bị tống vào ngục.
Nhờ thế mà Thành-Cát Tư-Hãn được trọn một năm hoàn yên ổn để chuẩn bị trận đánh lớn nhất của đời ông.
Chương XIII
CHINH PHẠT NƯỚC KIM
Mùa xuân năm 1211, Thành-Cát-Tư-Hãn hội quân bên sông Tây bình (Kéroulène). Tất cả tráng đinh từ núi Altai đến núi Chingan đều phải nhập ngũ vì lần chinh phục nầy quan hệ tới vận mệnh của tất cả dân tộc du mục.
Đại hãn tuyên bố: “Đã đến lúc phải đánh nước Kim, nước đã nhiều phen phản bội các khả hãn đời trước và luôn luôn tàn sát áp bức những dân tộc ở lều”.
Nghe xong, toàn thể ba quân nhiệt liệt hoan nghênh, tiếng reo mừng vang dậy núi sông, vì còn gì thỏa thích cho bằng chiếm cái nước giàu mạnh, của báu vô tận ấy; họ sẽ đoạt nhiều bảo vật, nhiều đồ kỳ lạ chưa hề thấy trong cuộc đời chinh chiến.
Riêng Thành – Cát – Tư – Hãn, ông nhận thấy việc làm của mình hết sức trọng đại, nó quyết định sự tồn vong của đế quốc mới thành lập. Nếu chẳng may thất bại, đế quốc sẽ sụp đổ vĩnh viễn; những xứ mới chinh phục ở chung quanh sẽ tràn tới cướp bóc tàn sát dân Mông Cổ; những bộ lạc vừa đặt dưới quyền thống trị của ông sẽ nổi loạn; những miền mới thống nhất sẽ ly khai… Cái vinh quang của dòng Bọt Di Dinh, của Mông cổ do bao nhiêu công lao của ông tạo nên sẽ tan biến như mây khói. Nhưng ông nhất quyết phải giáng một đòn xuống nước Kim.
Công cuộc chuẩn bị đã đến mức chu đáo, chẳng còn điều gì đáng lo ngại… Bây giờ bốn phía biên thùy đều yên ổn, các nước láng giềng đều là bạn đồng minh. Đáng lo ngại hơn cả là Tây hạ thì bây giờ họ đã quá suy nhược rồi, trong nhiều năm nữa họ cũng chưa dám gây chiến với ai. Trong nội bộ, nếu có thân vương hoặc tù trưởng nào còn thèm khát độc lập - bấy lâu nay chỉ thần phục một cách miễn cưỡng - ông bắt phải dự chiến luôn cả cha mẹ con cái và chiến sĩ của họ. Tại đất nhà chỉ còn lại bô lão, đàn bà, trẻ con với 2.000 quân túc vệ; tất cả 20 vạn kỵ quân phải dự cuộc nam chinh.
Chiến cuộc nầy hết sức trọng hệ, mối nguy hiểm cũng lớn lao nên không thể giao cho một pháp sư cầu nguyện vu vơ được. Đích thân Thành-Cát-Tư-Hãn làm lễ tế cáo trời đất. Một mình ông đi vào lều riêng “tiếp xúc” với Trời. Ông khấn với đấng tối cao rằng ông chỉ muốn báo thù cho tổ tiên; nêu danh tất cả những khả hãn đời trước đã chết dưới tay người Kim và kể những nỗi thống khổ của dân du mục bao phen bị dày xéo. Trời Xanh chí công chẳng lẽ để cho dân tộc Mông cổ bị đọa đày mãi, chịu đựng mãi sự bất công do một dân tộc giảo quyệt, phản phúc gây ra? Trời Xanh hãy gởi những thần Thiện xuống giúp ông và cả những thần Ác nữa vì những vị Thần nầy cũng có sức mạnh kinh khủng. Trời xanh đã phán bảo tất cả các dân tộc đang sống trên mặt đất nầy phải hop lại chống nước Kim.
Ở trong lều luôn ba ngày, đại hãn chỉ lo trai giới và cầu nguyện. Đến ngày thứ tư ông mới ra ngoài báo cho dân chúng hay “Trời sắp ban cho ông sự chiến thắng vẻ vang”.
Từ sông Tây – bình quân Mông cổ rầm rộ trẩy binh đến biên giới nước Kim xa 1400 dặm. Quân thám sát đi đầu, tiến theo hình rẽ quạt. Họ không để lọt một thứ gì ra ngoài tầm mắt, từ một dòng suối, một địa điểm đóng trại đến tên thám mã địch núp trong bụi. Nối theo là ba quân đoàn hùng dũng do những tướng tài ba nhất chỉ huy: Mộc Hoa Lê, Tốc Bất Đài, Triết Biệt làm ba cánh trung quân, tả quân, và hữu quân. Họ vượt qua những rặng núi phía đông sa mạc Gobi, nhân mã đều toàn vẹn không bị một tổn thất nào cả. Họ mang theo tất cả những vật dụng cần thiết, mỗi kị binh đều có dắt thêm một con ngựa để thay đổi, lại chở theo hằng đàn súc vật làm lương thực qua sa mạc; lúc bấy giờ đúng ngay mùa tuyết tan nên không lo ngại vấn đề nước, cỏ cho ngựa. Đó là lúc trẩy quân chớ lương thảo của binh Mông cổ bao giờ cũng sẵn ở trước mặt, ở xứ nầy mà họ sắp chinh phục.
Đế đô nước Kim lúc bấy giờ là Yên kinh (Bắc Kinh) nằm ở trung tâm đế quốc, là mục tiêu của Thành – Cát – Tư – Hãn. Các toán tiền quân Mông cổ đều hướng thẳng về đó. Họ vượt qua Trường thành ngay khoảng có hai lớp vách cách nhau 200 dặm được phòng thủ rất cẩn mật. Xưa nay những bức thành này che chở vùng bình nguyên Yên kinh, chặn đứng những cuộc xâm lăng của dân du mục.
Bấy giờ, nước Kim tổ chức việc quốc phòng rất chu đáo, nhiều binh đoàn hùng hậu đóng ở gần kinh đô. Nghe tin quân Mông cổ tới, họ liền kéo lên định vây hãm địch ở vùng hiểm địa nằm giữa hai bức thành ấy. Bỗng có tin cấp báo: “Cánh quân Mông cổ ấy là tiền quân chỉ đánh nhử mà thôi. Đại quân của họ do Thành-Cát-Tư-Hãn chỉ huy cũng đã vượt qua trường thành cách đó 400 dặm cho (do?) quân Ong Gút trấn giữ. Họ vượt qua dễ dàng gần như khỏi rút kiếm và đã xuất hiện trong tỉnh Sơn tây như ở trên trời rơi xuống”.
Nghe tin, quân Kim sợ thất thế định rút về những thành ở gần hơn hết; họ kéo qua phía Tây, băng ngang vùng núi non không có đường xá. Cánh tiền quân Mông Cổ liền bọc qua phía Tây nhưng nhờ phi ngựa nên nhanh hơn quân Kim – phần đông chỉ chạy bộ. Quân Kim bị tấn công hai mặt; pháo binh của họ quá nặng nề kềnh càng trở thành cái bia dễ nhắm nhất cho quân cung nỏ Mông cổ. Một trân mưa tên tưới xuống làm tán loạn hàng ngũ, tiếp theo là trận xung kích vũ bão của 20 vạn quân kỵ - một lối tấn công mà cả thế giới lúc bấy giờ không có quân đội nào đỡ nổi.
Chỉ một trận đầu, đạo quân tinh nhuệ nhất của Kim bị tiêu diệt. Quân Mông cổ tràn ngập trong tỉnh Sơn Tây.
Thành-Cát-Tư-Hãn cho quân tản ra trên một tầm cực rộng để có đầy đủ lương thảo nhưng không ngại nguy hiểm vì tổ chức liên lạc chạy rất điều hòa. Nếu địch quân xuất hiện ở đâu đó thì các cánh quân của ông có thể trong vòng một hai ngày tập trung lại đối địch. Ở đây cũng như ở khắp các mặt trận khác sau nầy đường liên lạc giữa đại hãn và các tướng lãnh không bao giờ đứt đoạn. Chiến thuật lúc tiến thì tản ra, lúc đánh thì họp lại được Thành-Cát-Tư-Hãn áp dụng một cách tuyệt hảo. Cho nên kẻ địch phải ngạc nhiên thấy bất cứ ở nơi nào binh Mông cổ cũng có thể xuất hiện đột ngột và đến những trận quyết định họ xuất hiện đông đảo không ngờ được.
Bây giờ ba đạo quân Mông cổ do các vương tử chỉ huy tiến theo hình cánh quạt qua suốt tỉnh Sơn tây.
Thành Cát Tư Hãn và Đà Lôi chỉ huy cuộc bao vây thành Đại Đồng Tây kinh của nước Kim.
Triết Biệt dẫn đạo quân thứ năm đi tìm đường xuống bình nguyên Yên Kinh.
Lúc viên tướng nầy hạ hết những cái thành lẻ tẻ, mở được con đường rồi, Thành-Cát-Tư-Hãn liền bỏ Đại Đồng, ba vương tử cũng bỏ những thành đã chiếm, đồng kéo rốc lực lượng xuống bình nguyên tiến thẳng đến cửa thành Yên Kinh.
Đây là lần thứ nhất Thành-Cát-Tư-Hãn được dịp đứng trước một kinh thành vĩ đại. Ông cho ngựa rảo một vòng để quan sát: nào hào, nào tường … thật là sâu, thật là kiên cố, thật là rộng lớn! Không ngờ con người có thể làm được một công trình lớn lao đến như thế!
Đại hãn hết sức băn khoăn: Bây giờ phải làm thế nào? Có lẽ không bao giờ ông làm chủ được cái đô thị có mấy trăm ngàn quân trú phòng nầy! Có lẽ không bao giờ làm chúa tể đế quốc Kim được! Ông đã chiến thắng bốn đạo quân rồi, đạo quân nào quân số cũng đông gấp mấy lần quân của ông, vậy mà tin cho biết còn nhiều lực lượng hùng hậu khác ở bốn phía kéo tới. Suốt 6 tháng qua, binh Mông cổ dong duổi khắp nơi, nào cướp nào phá, tung hoành ngang dọc, giờ nghe nói đó chỉ là một tỉnh, tỉnh Sơn Tây và đế quốc Kim còn những 12 tỉnh như vậy nữa.
Trong thâm tâm Thành-Cát-Tư-Hãn đã muốn bỏ cuộc. Tuy không chiếm được nước Kim, nhưng ông cũng đã đạt được ước vọng: tiêu diệt đạo quân tinh nhuệ nhất của Kim: binh sĩ Mông cổ đã giàu hơn, cướp vô số của cải, bắt vô số người làm nô lệ, nhất là uy danh của ông bây giờ lừng lẫy khắp bốn phương. Đạo quân Triết Biệt đi tảo thanh phía đông đã tới chỗ tận cùng của thế giới, chỗ “đất biến thành nước”, ông còn muốn gì nữa? Nếu vây thành Yên Kinh mà không chiếm được thì còn gì là uy vũ nữa?... Cho nên Đại hãn quyết định rút quân ra đóng ở cõi ngoài vừa để nghỉ ngơi trong mùa đông vừa để dòm ngó coi quân địch động tĩnh ra sao.
Đang lưỡng lự chưa biết đóng quân ở đâu, ở biên cảnh Sơn tây hay ngoài Trường thành, bỗng có một sứ giả nước Kim đến xin bệ kiến.
Những chiến thắng liên tiếp của “bọn rợ” đã làm kinh ngạc cả triều đình Yên kinh. Từ tám mươi năm qua họ chưa bao giờ thấy một cuộc xâm lược như thế. Thông thường hễ binh thiên triều kéo đến là quân rợ vội rút đi, bây giờ chúng nó lại đi kiếm quân thiên triều để đánh. Và hễ quân binh xuất hiện ở đâu là quân rợ ào tới bao vây tứ phía. Những tay chỉ huy của chúng thật là đảm lược không ai ngờ được, khiến cho các tướng của triều đình không còn biết xoay sở thế nào nữa. Giờ chúng lại dám kéo đến bao vây kinh đô. Ở Yên kinh ai cũng chờ chúng lao đầu vào các vách thành vững như núi xem thử bài học đẫm máu có dạy chúng chừa hẳn thói cướp bóc dã man không. Nhưng lạ thay khả hãn Mông cổ không để cho một tên kị binh nào bén mảng vào tầm tên. Nhiều người thấy rõ khả hãn tế ngựa xa xa ở chung quanh thành, rồi đột nhiên chẳng đòi hỏi gì hết lại rút quân đi. Họ muốn gì hay mưu mẹo gì đây chăng? Cho nên vua Kim muốn thử nghị hòa.
Viên sứ giả có nhiệm vụ dò xét ý định của quân rợ và giải thích cho đại hãn của họ hiểu: hoàng đế nước Kim rất đỗi kinh ngạc không hiểu cớ gì họ xâm lăng nước Kim. Đại Kim muốn sống hòa bình với Mông cổ. Hơn nữa đại hãn được phong Bắc Cường Chiêu Thảo Sứ đang có trọng trách tảo trừ phiến loạn…
Thành-Cát-Tư-Hãn cũng rất đỗi ngạc nhiên về cuộc hòa đàm này. Ông đã tàn phá những tỉnh trù phú của đế quốc Kim, vậy mà hoàng đế của họ lại muốn sống hòa bình với ông! Đế quốc rộng mênh mông, nhiều thành lũy kiên cố, quân đông như kiến cỏ, sao không xuất binh ra đánh đuổi mà hỏi tại sao ông muốn tấn công nước Kim? Hẳn là họ suy nhược lắm nhưng còn muốn che giấu. Đại hãn tiếp sứ giả rất ân cần nhưng có ý dò hỏi nhiều việc.
Vua nước Kim đã chọn lầm sứ giả; ông ta vốn là dòng dõi nhà Liêu đâu ưa gì nước Kim, cho nên sẵn sàng tiết lộ nội tình đế quốc Kim với Đại hãn. Các vua Kim trị vì ở Hoa bắc trong gần một trăm năm nay vẫn bị người Trung hoa coi là kẻ xâm lăng. Dù đã tiêm nhiễm phong tục, tập quán, đã thấm nhuần văn hóa Trung quốc họ không bao giờ được nhìn nhận là vua chính thống, trái lại dưới mắt người Trung quốc họ vẫn là “bọn Rợ miền Bắc, bọn Rợ Mãn Châu” đã cướp ngôi nhà Liêu. Ở miền Nam, vua Tống là kẻ thù của họ; ở Đông bắc một hoàng thân Liêu hiện đang miễn cưỡng thần phục họ, nhưng vẫn âm thầm đợi chờ cơ hội quật khởi… Nếu đại hãn sẵn sàng giúp nhà Liêu trung hưng thì chính sứ sẽ sẵn sàng làm nội ứng, ngoài ra còn lắm anh hùng hào kiệt cũng đang mưu đồ lật đổ nhà Kim.
Thoáng nghe qua Thành-Cát-Tư-Hãn đã thấu suốt tình hình. Kị binh của ông hùng mạnh hơn quân Kim, nhưng không thể chiếm những cái thành vĩ đại, kiên cố được. Mà giả sử có chiếm được cũng không thể giữ nổi vì quân Mông cổ quá ít, sẽ chìm mất trong cái biển người bao la. Nhưng có thể giúp cho quân Liêu chinh phục cái biển người ấy và giao cho họ chăn giữ quân Kim…
Thế rồi đại hãn quyết định tiếp tục cuộc chinh phạt. Ông trẩy quân lên vùng hiểm địa ở giữa hai dãy tường thành, tại đây có vô số trại nuôi ngựa, có thể nói là kho dự trữ chiến mã vĩ đại của hoàng gia Kim. Chỉ một trận chớp nhoáng, quân Mông cổ đã đoạt hết những bầy tuấn mã nhiều không đếm xiết, dứt được mối lo quân Kim sẽ tổ chức lại kị binh hoặc dùng ngựa vận tải lương thực. Sau nầy quân Kim có phản công, họ chỉ còn cách đi bộ, quân Mông cổ có thừa thì giờ để tới bất cứ nơi nào với đạo quân kỵ thần tốc của mình. Xong trận nầy, Đại hãn cho binh sĩ hạ trại tránh mùa đông tại đây, không còn lo ngại gì nữa, đồng thời gởi một đoàn sứ giả qua Khiết – đan tiếp xúc với hoàng thân Liêu.
Đầu mùa xuân năm 1212 thình linh hoàng thân Liêu khởi binh ở Khiết – đan, cùng lúc ấy quân Mông cổ hoạt động trở lại, đánh phá các tỉnh phía Bắc Trường thành. Vua liền phái quân đi đánh dẹp, nhưng vừa thấy bóng "quân rợ", họ đã chạy dài. Quân Mông cổ liền đuổi theo, vượt qua tường thành tràn xuống tỉnh Sơn tây. Họ đều kinh ngạc trước một sự kiện lạ lùng: tất cả những thành lũy đã san bằng năm trước bây giờ dựng đứng lên như cũ và được phòng thủ cẩn mật. Họ đành phải bỏ những thành nhỏ, đem toàn lực tấn công thủ phủ Đại – đồng. Quân Kim từ bốn phía kéo đến giải vây nhưng đều bị đánh tan rã. Quân Mông cổ ồ ạt hãm thành nhưng sức phòng thủ quá kiên cố không làm sao nao núng quân Kim được. Trong lúc chỉ huy một đợt tấn công, Thành-Cát-Tư-Hãn lại bị một mũi tên, suýt rơi xuống ngựa. Đồng thời những tin thất lợi từ Khiết – đan đưa tới. Quân Kim đại thắng ở mặt trận này, đập tan hết quân khởi nghĩa và đang bao vây hoàng thân Liêu.
Thành-Cát-Tư-Hãn liền rút quân ra ngoài Trường thành cho quân sĩ luyện tập lại cách công thành đồng thời phái Triết – Biệt thống lĩnh hai binh đoàn đi tiếp viện hoàng thân Liêu. Chỉ một trận, Triết – biệt quét quân Kim ra khỏi Khiết – đan, rồi vây hãm Liêu – dương. Thử qua vài đợt tấn công thấy không lay chuyển được chút nào, viên tướng tài ba tưởng đã đành phải bỏ cuộc như Thành-Cát-Tư-Hãn ở Đại Đồng. Nhưng sau cùng ông áp dụng một chiến thuật : cho phao ngôn khắp nơi rằng sắp có viện binh Kim tới, rồi đột ngột ngưng cuộc vây hãm, hấp tấp rút quân đi bỏ lại tất cả hành trang, lều trại trước thành Liêu – dương. Hai ngày sau ông cho đổi ngựa khỏe quay trở lại. Chỉ trong một đêm quân Mông cổ phi hết khoảng đường đã lui. Họ gặp quân Kim cùng với dân chúng đang tranh nhau cướp đồ đạc đã bỏ lại, bốn cửa thành đều mở toang. Ngựa Mông cổ sải trên lưng quân Kim vào thẳng trong thành. Mưu kế nầy đã đưa đến thành công rực rỡ: hoàng thân Liêu đang thất điên bát đảo, bây giờ nghiễm nhiên xưng vương ở Liêu Đông, đem xứ Khiết-đan về qui phụ Mông-cổ.
Mùa xuân năm sau (1213) quân Mông – cổ lại mở chiến dịch ở nước Kim. Trận thứ ba nầy khởi đầu bằng cuộc đánh chiếm các tỉnh ở Hoa – bắc, có kế hoạch hẳn hoi. Họ không bỏ một thành nào hết, trước tiên triệt hạ những thành nhỏ để rút kinh nghiệm rồi sau mới lần lượt công hãm những thành kiên cố. Đà – Lôi và Tô – Gu – Sa xung phong trèo lên thành làm gương cho quân sĩ. Ba vương tử và đám bộ tướng đánh chiếm lần lượt các hẻm núi. Bây giờ viên sứ giả người Liêu thấy quân Mông – cổ đã thật sự muốn chiếm nước Kim liền dẫn một số tướng Khiết – đan theo Thành – Cát – Tư – Hãn. Quân Mông – cổ chiếm được trọn tỉnh Sơn tây và bao vây chặt chẽ vùng bình nguyên Yên – kinh.
Trong lúc ấy, một cuộc chính biến bùng nổ tại triều đình Yên – kinh.
Tình hình đã quá nguy ngập mà triều đình lại thiếu người nên hoàng đế Vĩnh – Tế phải xuống chiếu thu dụng lại đám quan bị sa thải trước đây, trong số đó có viên thái giám Hồ - Sa – Hổ. Ông ta được nhà vua cho chỉ huy một quân đoàn, bất ngờ dùng lực lượng đó làm phản, chiếm Yên – Kinh, giết quan tổng trấn rồi ám sát hoàng đế đoạt chính quyền.
Thành-Cát-Tư-Hãn liền đình chỉ các cuộc hành quân, gấp rút kéo đến Yên kinh với hi vọng loạn quân sẽ mở cửa thành đầu hàng, ngỡ đó là cuộc quật khởi của đám tướng Liêu. Ông không hiểu rằng đối với người Trung quốc bọn Khiết – đan nhà Liêu hay bọn Mãn Châu nhà Kim đều là kẻ xâm lăng, không bao giờ coi bọn ấy là đồng chủng với mình. Hồ - Sa – Hổ cũng thuộc dòng Liêu, nhưng không theo chủ trương của Liêu – đông, nhất định không thần phục bọn Rợ; cuộc nổi loạn nầy là một mưu đồ riêng của ông ta. Nên khi giết Vĩnh – Tế rồi, ông ta nắm giữ chức thống tướng chỉ huy toàn thể quân đội và đem một hoàng thân lên ngôi (Wou Tou Pou 1213-1223) rồi chống đánh Mông – cổ. Dù chỉ còn một chân phải ngồi trên xe cho lính đẩy, Hồ-Sa-Hổ cũng đích thân chỉ huy, đội binh qua một con sông gần Yên – kinh đánh úp binh Mông – cổ. Bị tập kích bất ngờ, đại quân Mông – cổ rối loạn hàng ngũ, số tổn thất khá nặng nhưng còn một may mắn là quân đoàn của tướng Cao – Chi lãnh nhiệm vụ đánh tập hậu lại kéo tới quá trễ, nhờ đó quân Mông – cổ mới có đường rút lui.
Tức giận vì mất một cơ hội thắng lợi lớn lao. Hồ-Sa-Hổ đã toan giết tướng Cao – Chi nhưng có hoàng đế Kim can thiệp nên Hồ-Sa-Hổ đành để cho Cao – Chi chờ dịp lập công chuộc tội. Sau trận nầy Hồ-Sa-Hổ lâm bịnh nặng không thể tiếp tục chỉ huy nữa, mới gọi thêm quân tiếp viện rồi giao binh quyền cho Cao – Chi. Bấy giờ Thành-Cát-Tư-Hãn đã tập trung được tất cả các binh đoàn về mở cuộc tấn công. Cuộc huyết chiến diễn ra liên tiếp ngày đêm hết sức gay go khốc liệt. Sau cùng Cao – Chi thảm bại bị quân Mông – cổ đuổi theo đến ngoại thành Yên – kinh.
Biết bận này khó thoát khỏi bản án tử hình của Hồ-Sa-Hổ, Cao – Chi liền ra tay trước; ông ta dẫn đám tàn quân bao vây đại bản doanh của thống tướng. Hồ-Sa-Hổ khập khễnh chạy đi trốn chẳng may vướng vạt áo té xuống đất bị Cao – chi tóm được, tức khắc đem chặt đầu rồi dẫn đám bộ hạ đi thẳng tới cung xin yết kiến nhà vua. Lúc chầu vua, tay Cao Chi còn xách thủ cấp Hồ Sa Hổ, yêu cầu vua xét lại lòng trung của y và của Hồ Sa Hổ. Lúc đó hoàng cung cũng bị bọn lính của Cao Chi bao vây, trước thái độ đe dọa như thế, nhà vua không làm sao khác được. Hơn nữa vua vẫn chưa quên Hồ Sa Hổ là một tên phản nghịch đã giết Vĩnh – Tế, tự xưng thống tướng; liền giao cho đình thần làm bản án hài tội Hồ Sa Hổ. Cao Chi được tuyên dương công trạng và phong chức thống tướng. Tất cả đám binh lính tham dự cuộc lật đổ Hồ Sa Hổ đều được tưởng thưởng …
Trong lúc nội bộ Yên – Kinh rối nát như nói trên, quân Mông – cổ đã tiến tới sát cửa thành, nhưng cũng như lần trước không thể nào lọt vào được. Thành Cát Tư Hãn bực tức vô cùng. Bọn Kim ở trong bốn bức tường này sẽ khinh khỉnh cười mình chăng? Đế quốc Kim chưa ngửi mùi chiến tranh … được lắm! phải cho họ nếm thử!
Ông quyết không án binh tránh mùa đông nữa, cũng không xua quân vào những tường thành bất khả xâm phạm, mà chia quân Mông – cổ cùng 46 đoàn thân binh Trung – quốc làm ba đạo, một đạo giao cho Cát – Xa thống lĩnh tiến đánh miền đồng thuộc Nam Mãn – châu. Đạo thứ hai tách ra làm ba cánh giao cho một vương tử chỉ huy tiến xuống miền Nam thuộc vùng cao nguyên Sơn tây; ông và Đà – Lôi chỉ huy đạo thứ ba tiến xuống vùng đồng bằng ở Đông Nam, tới tỉnh Sơn Đông.
Suốt mùa thu và mùa đông ba làn sóng kỵ binh Mông – cổ tràn ra ba ngả chém giết, cướp đoạt, đốt phá gần trọn nước Kim. Mùa màng bị đốt sạch, thành thị không còn bóng người, nơi nào họ đi qua là chỉ còn lại điêu tàn khói lửa. Bọn tướng Kim rút vào nội thành, bắt dân chúng ngoại ô vào phụ lực phòng thủ. Thành Cát Tư Hãn ra lịnh bắt hết đàn bà, trẻ con, bô lão ở các làng chung quanh, đẩy họ tới chân thành, một lớp làm bia đỡ tên, một lớp phải đào dưới móng chân tường cho vách đổ xuống. Dân trong thành không chịu bắn xuống thân nhân của họ. Với chiến thuật này, lần lượt quân Mông – cổ hạ hết thành trì của đế quốc Kim. Chỉ những thành sớm đầu hàng thì được để yên, còn bao nhiêu đều bị san bằng hết. Không đầy 6 tháng, 90 thành kiên cố bị cướp sạch và đốt ra tro. Gần trọn vùng bình nguyên Hoa – bắc chỉ còn lại 11 thành không hạ được trơ vơ như những ốc đảo ở giữa sa mạc. Nạn đói và bịnh dịch hoành hoành khủng khiếp, sau những cuộc hành binh của Mông – cổ; thây người như rạ ở khắp mặt đường, mặt đồng, trên dòng sông … Bấy giờ cơn lôi đình của Thành Cát Tư Hãn mới dần nguôi.
Qua mùa xuân, quân Mông – cổ mới đình chỉ cuộc hành quân, ba đạo quân đều rút trở về ngoại thành Yên – kinh. Nhưng khi trẩy qua các vùng bị bịnh dịch hoành hành, quân Mông – cổ bị nhiễm bịnh, lúc đến doanh trại phần đông đều bơ phờ, nhừ tử.
Trong tình trạng như thế mà bọn tướng lãnh vẫn đòi đại hãn cho họ tấn công thành Yên – kinh. Chỉ vì số chiến lợi phẩm nhiều như núi non làm cho họ hăng say lạ thường; luôn ba năm chuyến nầy nối chuyến khác, họ tải tất cả của cải của nước Kim về Mông – cổ.
Nhưng đại hãn biết rằng có chiếm được Yên – kinh cũng không thể giữ được; ông đã thấy rõ không thể chinh phục một đế quốc có 50 triệu dân; đối với ông, vua Liêu hay vua Kim cai trị đế quốc cũng thế thôi có gì là quan trọng, hướng chi họ đã suy nhược và rã rời. Hơn nữa bịnh dịch đang phát hiện trong quân đội, có thể là điềm trời cảnh cáo ông.
Đại hãn gởi sứ giả tới hoàng đế Kim đưa ra một yêu sách: “Tất cả những tỉnh ở phía Bắc sông Hoàng hà đều đã lọt vào tay ta, giờ chỉ còn lại Yên – kinh. Đó là Trời muốn cho Ngươi suy vong đến mức đó. Nếu ta thẳng tay đẩy ngươi vào chỗ cùng đồ, có lẽ Trời sẽ bất bình chăng? Ta vì ngại lòng trời nên muốn triệt binh về nước. Vậy Ngươi nên sắm sửa lễ vật cống hiến cho các tướng lãnh của ta, họ mới thỏa mãn mà rút quân đi.”
Triều đình Yên – kinh liền mở cuộc họp bàn. Từ lâu nay họ đã quen nghe kẻ yếu xin hòa nên tướng Cao Chi đòi đánh một trận quyết định, cho rằng quân Mông – cổ đã mỏi mệt, ngựa của họ đều kiệt lực. Nhưng bọn đại thần đều cực lực chống lại chủ trương đó: không có gì điên rồ bằng chuyện đánh nữa. Từ ba năm nay có làm gì khác hơn là đánh quân Mông – cổ, nhưng thử kiểm điểm lại kết quả! Đã đưa đạo binh tinh nhuệ nhất ra chiến đấu thì liền bị tiêu diệt; rồi đạo binh thứ hai, thứ ba … thứ mười, bị tiêu diệt! tiêu diệt! Rút trong thành thì thành bị chiếm, bị cướp, bị đốt! Nào là tài thao lược của Tôn – Ngô, Gia – Cát, nào là máy móc tinh xảo, nào là địa lôi khủng khiếp nhất … tất cả đều thất bại trước bọn ác quỷ Mông Cổ! Tất cả những kế hoạch đều trở thành đại họa! Bây giờ còn tính bác yêu sách của họ để trêu hùm dữ nữa hay sao?...
Hoàng đế Kim liền phái một đại thần tới Đại bản doanh của Thành Cát Tư Hãn xin nghị hòa. Nhà vua thuận theo để cho hoàng thân Khiết Đan trị vì ở Liêu – đông, nạp một số cống vật như vàng lụa, 3.000 con ngựa quí và một số mỹ nữ; vua lại gả một công chúa, con của hoàng đế Vĩnh – tế cho đại hãn gọi là tỏ tình hòa hiếu.
Cuối Xuân năm 1214, sau ba năm tàn phá nước Kim, Thành Cát Tư Hãn rút quân về Mông – cổ, đại hãn hẳn rất hài long vì một dân tộc 50 triệu người, có Vạn lý trường thành, núi cao sông rộng, có thành lũy kiên cố, quân hùng tướng giỏi mà cũng không thể chống lại 20 vạn quân Mông – cổ. Đế quốc Kim đã hoàn toàn kiệt quệ ít ra phải mười năm nữa mới xây dựng lại được như cũ. Từ nay nước Kim không còn là mối đe dọa dân Mông – cổ nữa.
Lúc về quân Mông – cổ có dắt theo hàng vạn tù binh mà hồi còn đánh nhau đã dùng làm phu khiêng đất, lấp kinh phá đê… bây giờ phải giải quyết cách nào đây. Họ mang theo đủ thứ bịnh, lại không đủ sức khỏe để qua sa mạc Gobi, mà cũng không thể thả họ về vì họ đã thấy cách hành binh và biết rõ bản chất của người Mông – cổ; sau nầy sẽ trở thành những địch thủ lợi hại. Vả lại sinh mạng của một người Kim có nghĩa gì? Thành Cát Tư Hãn ra lịnh giữ lại những nho sĩ, nghệ sĩ, thợ giỏi còn bao nhiêu thì chém tiệt hết.
Bây giờ nhằm mùa hạ, không thể qua Gobi dưới cái nắng thiêu người, đại hãn ra lịnh hạ trại ngoài ven sa mạc, trong ốc đảo Dolon Nor.
Vừa khuất bóng quân Mông – cổ, hoàng đế Kim liền quyết định dời đô xuống Khai – phong ở phía Nam sông Hoàng Hà. Quần thần hết sức can ngăn, cho rằng việc di đô như vậy là một cuộc đào tẩu bỏ rơi các tỉnh miến Bắc, nhưng không sao lay chuyển được ý định của nhà vua được. Tướng Cao Chi lo việc hộ giá xuống phương Nam. Để trấn tĩnh nhân tâm, nhà vua tuyên cáo rằng Thái tử và quân đội sẽ ở lại Yên kinh, quyết không bỏ miền Bắc.
Nghe tin này, Thành Cát Tư Hãn nổi trận lôi đình: "Bọn Kim coi thường lời nói của ta! Chúng nó giả vờ hoà hiếu để yên mặt Bắc xuống chinh phục miền Nam!"
Ngay lúc ấy, một sứ giả nhà Tống tới Dolon Nor xin vào bệ kiến đại hãn. Vương sứ cho biết triều đình Tống đang bận rộn đối phó với âm mưu của hoàng đế Kim. Ở miền Trung – quốc mọi người đều hoan hỉ đón tin chiến thắng của Mông – cổ như tin chiến thắng của quân nhà. Họ coi việc thảm bại của đế quốc Kim như một hình phạt xứng đáng của Trời về tội xâm lăng các tỉnh Hoa – bắc và đòi tuế cống quá nặng nề: 25 vạn lạng bạc, 25 vạn tấm vóc lụa; chỉ có năm rồi triều Tống lờ đi vụ nạp cống hằng năm. Bây giờ quân Mông – cổ thình lình rút đi và vua Kim dời đô xuống sát ranh giới Tống khiến cho hoàng đế Trung- hoa hết sức lo ngại. Vị vương sứ có nhiệm vụ trình bày cho đại hãn thấy rõ cái nguy cơ buông lỏng cho nước Kim phục hồi lực lượng.
Trước khi vào bệ kiến, viên sứ giả Trung – quốc phải dành một thời gian học những lễ nghi, tập tục của Mông – cổ. Ông ta phải biết cả những chi tiết nhỏ nhặt trong nghi thức ngoại giao, chẳng hạn: khi vào viên môn không được giẫm chân lên ngưỡng cửa, không được dựa vào cột. Phạm vào những điều cấm ấy sẽ bị vệ binh quất bằng roi da rồi đem chặt đầu. Ông ta phải mặc trào phục nhảy ngang qua hai ngọn lửa để diệt những “chất hung ác, xấu xa” trong con người. Tất cả tặng phẩm đều phải hơ lửa trước rồi đem phơi ngoài trời luôn bảy đêm ngày, và vì vậy mà các loại gấm vóc và đồ mỏng manh hư hao rất nhiều, sau đó mới được phép vào viên môn bệ kiến.
Bên trong viên môn mọi vật đều chìm đắm trong một thứ ánh sáng lờ mờ, kỳ ảo vì ánh mặt trời chỉ lọt vào cái ống thông khói trên đỉnh nóc và qua cái màn vén lên ở cửa ra vào. Trong tận cùng có một cái bệ cao trải thảm trên để hai cái ngai, một của đại hãn và một của bà sủng phi, công chúa nước Kim. Cận bên bệ ở dưới đất là dãy ghế của sáu bà thứ phi; từ đó lui về phía sau là những dãy ghế đặt theo hình móng ngựa dành cho các thân vương, tướng lĩnh, hàng quí tộc và vợ con của họ. Ai cũng ăn vận sặc sỡ, lộng lẫy, đồ trang sức toàn bằng cẩm thạch, ngũ sắc hoặc bằng vàng chạm trổ rất công phu. Gần cửa ra vào có cái bàn rộng để toàn là ché vàng hoặc bạc đựng Koumiss và các thức ăn. Bên góc điện, một ban 18 nhạc công gồm toàn là những tay tuyệt kỹ trong giới nhạc Trung quốc.
Trên ngai, dáng vóc lực lưỡng của Thành Cát Tư Hãn nổi bật giữa cảnh âm u huyền ảo, nhưng chỉ riêng có đại hãn là không có một món đồ trang sức nào trên mình. Vị chúa vừa nâng chén rượu thì giàn nhạc trỗi lên ầm ĩ, tất cả đám cử tọa nhất tề đứng dậy, kẻ khiêu vũ, người vỗ tay theo nhịp, tiếng cười nói lẫn với tiếng nhạc gây ra một cảnh vừa ồn ào, vừa có vẻ cuồng bạo, man dã lạ thường.
Viên sứ giả không biết phải làm cách nào thi hành nhiệm vụ của mình. Những câu nói văn hoa tế nhị được chuẩn bị thật chu đáo nếu thốt ra giữa cái không khí vỡ chợ như thế nầy thì còn đâu là ý nghĩa? Nhưng cũng may đại hãn để cho ông ta nói hết lời, rồi nghe viên thông ngôn thuật lại nhưng không tỏ ý chấp thuận hoặc phản đối gì hết. Lời đáp duy nhất của đại hãn là lời mời sứ giả cứ uống Koumiss và ăn thịt nướng tùy thích. Vương sứ ngồi hàng ghế bên tả cạnh những bà thứ phi nhưng ghế cao hơn mọi người. Ông ta uống rượu nếp và nói tiếng Trung quốc với họ trong lúc bọn chiến sĩ vũ ở trước mặt. Nhưng không ai đả động tới câu chuyện của ông ta, hôm nay cũng như những ngày sau đó. Họ không hội họp bàn luận mà cũng không cho ông ta yết kiến đại hãn thêm một lần nào nữa.
Ông ta thử cố gắng lắng(?) nghe chủ trương của đại hãn ở những người thân cận, nhưng vô hiệu quả, chừng như họ chẳng có chủ trương gì hết đối với cuộc diện Trung quốc. Họ chỉ lo phi ngựa, bắn cung, tổ chức những cuộc săn bằng chim ưng, hoặc chơi banh với đại hãn trên một cái sân rộng. Sứ giả có thể ngồi trước lều riêng của mình tha hồ nhìn ngắm: đại hãn có thân hình vạm vỡ nổi bật giữa đám thân vương, cận tướng, đang say sưa đuổi theo trái banh, chụp lấy, liệng bay vút đi. Mỗi lần thắng được một trái banh, vị chúa cười giòn dã, vui nhộn như trẻ con …
Một hôm, thừa lúc đại hãn cỡi ngựa đi quanh trại, sứ giả ra đứng bên đường vờ như tình cờ gặp mặt. Thành Cát Tư Hãn dừng ngựa lại bảo người thông ngôn hỏi:
- Sao hôm rồi ngươi không ra đấu banh với bọn ta? Trận đấu hôm ấy thật là hào hứng!
Sứ giả ngạc nhiên khiêm tốn đáp:
- Thần không có cái hân hạnh được mời tham dự.
- Hừ! Tại sao phải đợi mời! Nếu người thích thì cứ tham gia chứ có gì!
Thế là bữa cơm chiều hôm đó, vì tội không ra chơi banh, sứ giả bị bọn triều thần phạt rượu đến say mèm phải khiêng về trại.
Một lần nữa, mới vừa mở miệng hỏi đại hãn được ít tiếng về đề nghị của triều Tống thì đại hãn cắt ngang, đáp một câu vắn tắt: “Ta đã nghị hòa với vua Kim”.
Luôn ba năm bị tàn phá, giết chóc khủng khiếp như thế tưởng nước Kim đã tê liệt, không ngờ mới có ba tháng hòa bình đã trỗi dậy mạnh mẽ! Những đô thị bị thiêu hủy được xây cất lại, những thành lũy đã san bằng đều dựng trở lại. Mới cam kết nhìn nhận nền độc lập của Liêu – đông, bây giờ họ lại xua một đạo quân hùng hậu qua đánh chiếm trở lại: chỉ có mấy tuần quân Liêu – đông đại bại, thành Liêu – dương mất, vua Liêu phải đào tẩu.
Đám vệ binh của hoàng đế Kim theo hộ giá lúc di đô phần lớn là người Liêu. Vừa tới Khai phong họ được lịnh phải nạp khí giới và ngựa lại. Họ biết ngay là sẽ bị loại ra liền nổi lên giết tướng chỉ huy, cử người của họ lên thay thế rồi kéo nhau trở lên miền Bắc. Hay tin, triều đình liền phái một đạo quân đuổi theo, một đạo khác án ngữ trên mặt Bắc, chận họ lại. Trong tình thế tấn thối lưỡng nan, họ gởi một đoàn đại biểu tới Dolon Nor sáp nhập vào quân Mông – cổ và xin cứu viện. Đế quốc Kim phục hưng quá nhanh chóng, cứ theo cái đà nầy thì chẳng bao lâu nữa một Đại Kim mới sẽ còn cường thịnh nguy hiểm hơn trước vì đã hiểu rõ sức mạnh cũng như nhược điểm của Mông – cổ, họ đâu có để yên … Thành Cát Tư Hãn liền quyết định phát động chiến tranh trở lại. Mộc Hoa Lê thống lĩnh một quân đoàn đi cứu vua Liêu; Tốc – bất – đài mở chiến dịch hành quân ở Mãn châu, tại chính quốc của người Kim, một quân đoàn thứ ba tiến xuống Nam giải thoát đám vệ binh Liêu.
Tốc – bất – đài hành quân suốt cõi đất Mãn châu xuống tận miền Cao – ly; từ đó xứ này trở thành phiên thuộc của Mông – cổ.
Lúc ấy quân Kim đã chiếm trọn vẹn Liêu – đông, viên thống đốc do triều đình bổ nhiệm đã lên đường. Mộc – Hoa – Lê đánh tan quân Kim, kiểm soát hết những con đường vào thành Liêu dương, bắt được viên thống đốc đoạt lấy chiếu chỉ của nhà vua trao lại cho một đại tướng Kim đang phục vụ trong hàng ngũ Mông – cổ. Viên đại tướng dẫn một đoàn tùy tùng tiến vào kinh thành thẳng đến soái phủ. Bọn Kim ngỡ là người của vua bổ nhiệm, tiếp đón trọng thể; nhưng nắm quyền rồi viên đại tướng liền loại hết đám tướng lãnh của đế quốc, mở toang các cửa thành cho quân Mông – cổ vào. Mộc – hoa – lê định trừng phạt dân Liêu – dương đã thụ động đối với quân Kim nhưng viên đại tướng khuyên nên dùng chính sách mềm dịu để chinh phục toàn thể dân Khiết – đan, nhờ đó mà những thành còn lại đều qui hàng Mông – cổ, quân Kim bị tống ra khỏi lãnh thổ Liêu.
Đạo quân thứ ba của Mông – cổ mở được một đường tiếp viện cho đám vệ binh bị bao vây, rồi phối hợp với họ kéo rốc tới cửa thành Yên kinh. Nhưng trước đó thái tử nhiếp chính đã rút về Khai phong. Lúc được chiếu lệnh của hoàng đế bảo phải rút đi, có một hoàng thân hết lời can ngăn thái tử, cho rằng thái tử là linh hồn của cuộc chiến đấu, nếu bỏ xuống Nam tức là bỏ rơi hoàn toàn các tỉnh miền Bắc, chắc chắn cảnh hỗn loạn sẽ diễn ra. Nhưng bọn tướng lãnh lại hùa theo thái tử, đòi phải tuân lệnh chiếu. Họ hỏi hoàng thân: “Ngài có dám bảo đảm giữ nổi kinh thành không?” Hoàng thân không trả lời được vì những tỉnh ở chung quanh đã bị cướp phá sạch rồi, lương thực đâu còn để cung cấp cho một kinh đô rộng lớn như thế và ngay lúc đó lương thực cũng đã bắt đầu thiếu rồi. Thái tử hứa khi về Khai phong sẽ lo việc tiếp tế cho Yên – Kinh.
Sau đó quả nhiên cảnh hỗn loạn xảy ra ở khắp nơi. Nhiều tỉnh nổi dậy tuyên bố độc lập. Thống đốc của họ có kẻ xưng vương, có kẻ hàng phục Mông – cổ. Rồi họ đánh lẫn nhau, đánh bọn theo đế quốc, đánh luôn cả quân Mông – cổ.
Mộc – hoa – lê đập tan tất cả những đám quật khởi, mở cuộc hành quân suốt cả thu đông, chiếm hết thảy 800 thành, một phần thì san bằng, một phần thì giao lại cho người Trung quốc nắm chính quyền. Riêng Yên – kinh, quân Kim vẫn giữ vững mặc dù nạn đói kém và bịnh dịch hoành hành dữ dội. Miền Nam gởi liên tiếp nhiều đạo quân lên cứu viện nhưng đều bị quân Mông – cổ đánh tan vỡ … Hoàng thân cố thủ kinh đô cho đến mùa xuân thì lương thảo cạn, chuyến tải lương cuối cùng ở Khai – phong lên cũng bị phục binh Mông – cổ cướp sạch. Tuyệt vọng, hoàng thân xua hết quân trong thành ra tử chiến với địch nhưng đám bộ tướng không chịu theo.
Quá tức giận, hoàng thân liền lui về soái phủ thảo một tờ biểu kể rõ tình hình ở Yên – Kinh và tố cáo tướng Cao Chi toan làm phản. Ông xin vua xá tội không giữ nổi kinh thành. Rồi giao tờ biểu cho một thuộc hạ thân tín dặn khi Yên-kinh thất thủ thì về Khai-phong dâng lên vua; ông đem của cải phân phát hết cho tôi tớ quyến thuộc rồi uống thuốc độc tự tử. Qua đêm sau, viên đại tướng thay quyền chỉ huy dẫn người ái thiếp mở cửa thành trốn đi bỏ mặc cho bọn lính cướp phá khắp nơi.
Mộc-Hoa-Lê xua 15.000 quân Mông-cổ và các đoàn thân binh Trung –quốc tràn vào thành, thế như nước lũ. Cuộc tàn sát cướp bóc phá hoại diễn ra thật khủng khiếp chưa từng thấy. Lửa cháy ngùn ngụt suốt cả tháng. Nhiều sử gia ghi như sau: “Số người bị giết thây chồng chất như núi đồi; gan, óc và mỡ chảy ra lầy cả mặt đường. Bảy mươi ngàn phụ nữ sợ bị giặc bắt hiếp nhảy bừa từ trên mặt thành xuống đất…”
Tin chiến thắng về tới ốc đảo Dolon Nor không làm cho Thành-Cát-Tư-Hãn hoan hỉ hơn vì đế quốc Kim bây giờ không đáng quan tâm nữa. Ông chỉ phái Cô-Tô-Cô đến Yên kinh chở hết bảo vật trong hoàng cung về Mông cổ.
Sứ giả của đại hãn được tiếp đón hết sức trọng thể; bọn triều thần cũ tìm đủ mọi cách để được Cô Tô Cô chú ý tới và ban cho một ít đặc ân. Kẻ thì dắt ngựa quý tới, kẻ đem gấm vóc, người dâng ngọc ngà… Thấy tặng phẩm đều thuộc thứ vô giá, Cô-Tô-Cô hỏi:
- Những thứ này có phải là của cải trong hoàng cung không?
- Bẩm phải…
- Các ông làm gì có những báu vật ấy được! Những thứ nầy đều là của vua Kim, bây giờ quân ta đã chiến thắng thì đương nhiên nó thuộc về Đại Hãn. Sao các ông dám lấy của Đại Hãn đem tặng cho ta?
Thế là tất cả đồ châu báu trong cung cấm đều được đánh số từng món và ghi vào sổ cẩn thận, tải về Dolon Nor suốt mấy tuần mới hết. Mỗi chuyến đi, quân Mông Cổ còn bắt theo một số người hữu dụng: nghệ sĩ, đạo sĩ, các nhà chiêm tinh, thợ giỏi… người nào cũng bắt đeo một cái bảng ghi tên họ, nghề nghiệp.
Một hôm Thành-Cát-Tư-Hãn chú ý tới một người vóc dáng phương phi, có chòm râu dài đen nhánh, bảng đeo ở trước ngực ghi: “ Gia-Luật-Chu-Thai – đạo sĩ – chiêm tinh gia – thuộc tôn thất Liêu. Đại-Hãn nói:
- Nhà Liêu và nhà Kim đời đời thù địch nhau; nay ta đã diệt được Kim báo thù giùm cho ngươi rồi đấy!
Chu-Thai đáp:
- Tâu Đại-Hãn, nội tổ và thân phụ của lão phu trước kia đều nhờ nhà Kim, bây giờ lão phu cũng thế, không dám nói dối để mang tội phản nghịch lại thân phụ và chúa cũ.
Lời đáp trên làm cho Thành-Cát-Tư-Hãn rất hài lòng. Một người ở đô thị mà còn giữ được lòng trung thực, không sợ uy vũ, không tham lợi như thế hẳn là người đáng nể. Đại-Hãn liền vời Chu-Thai vào kim trướng hỏi han thật ân cần rồi phong làm quân sư.
Hoàng đế Kim lại xin nghị hòa. Thành-Cát-Tư-Hãn bàn với chư tướng: “Ta đã giết hết nai với mễn rồi, giờ chỉ còn lại một con thỏ, thôi nên buông tha cho nó!” Nhưng điều kiện hòa bình của Mông cổ đưa ra, hoàng đế Kim không chấp nhận được: quân Kim phải rút ra khỏi các tỉnh ở phía Bắc sông Hoàng-hà; nhà vua chỉ còn quyền hành ở Hà-Nam và phải làm phiên thần Mông-Cổ.
Qua mùa thu chiến tranh lại tái diễn. Thành Cát Tư Hãn phái một đạo binh xuống đánh miền Nam; nhưng lần này quân Mông-Cổ bại trận phải thối qua sông Hoàng-Hà đi trên mặt băng. Nhiều thị trấn ở xa nổi loạn, dân quân rục rịch dấy lên khắp nơi, mở màn một cuộc chiến tranh dai dẳng, hao mòn. Đồng thời có tin khẩn cấp từ phương Tây báo về: dân Nãi-man rục rịch quật khởi, dân Thổ-phồn đã dấy loạn một vài nơi…
Mùa hạ năm 1216 Thành-Cát-Tư-Hãn rút đại phần quân viễn chinh về xứ, để Mộc-Hoa-Lê ở lại nước Kim với 23.000 binh Mông cổ và hơn 20.000 thân binh, phong cho viên đại tướng làm phó vương cai trị ba nước Kim, Liêu và Cao-ly. Trước khi từ biệt, Đại-Hãn lại cho phó vương một chiếu lệnh cuối cùng: “Ta đã chiếm xong các xứ ở miền Bắc núi Hoài, phần ngươi hãy tiếp tục cuộc chinh phạt ở miền Nam núi ấy’.
Chương XIV
CHINH PHẠT TÂY LIÊU
Dân Liêu vốn là dân Khiết-đan, xưa kia họp thành bộ lạc ở khoảng giữa phía Tây Nam Mãn-châu và phía Đông Nhiệt-hà ngày nay. Đời Ngũ-đại nhờ giúp cho tướng Thạch-Kỉnh-Đường cướp ngôi vua lập nhà Hậu-Tấn, được Thạch nhường Bắc bộ tỉnh Hà-bắc, Sơn-tây để trả ơn, mới mở rộng bờ cõi thành một nước mạnh, đặt quốc hiệu là Liêu. Đến đời Tống thì bị quân Kim chiếm trọn vẹn lãnh thổ và đoạt quyền đô hộ các tỉnh miền Bắc Trung-quốc (1125). Một người trong tộc là Gia-Luật-Đại-Thạch dẫn một số dân Khiết-đan chạy lên Tây Bắc, chinh phục được 18 bộ lạc, dựng lên thành Imil làm phủ thủ. Ít lâu sau, nước Karakhamide ở mé Tây Nam bị dân Thổ uy hiếp, gọi Đại-Thạch đem binh đến giúp. Sẵn dịp đó Đại-Thạch chiếm luôn xứ này và tất cả những xứ nhỏ ở chung quanh lập thành một đế quốc khá rộng lớn (gồm miền Đông Tân-cương ngày nay) gọi là đế quốc Tây Liêu, Đại-thạch xưng là đại đế (Gour-Khan).
Truyền xuống đời cháu nội (Tche-Lou-Kou, 1178-1121) thì đế quốc suy yếu. Vị hoàng đế nầy nhu nhược tối tăm, chỉ lo săn bắn và miệt mài trong những cuộc hoan lạc; các xứ phiên thuộc thấy thế mới tách ra qui phụ các nước khác, như Thổ-phồn năm 1209, đến xin thần thuộc Mông-cổ.
Gút-Sơ-Lúc - vương tử Nãi-man - sau khi bị Mông-cổ đánh bại bôn đào qua Tây-liêu, cưới cháu gái của hoàng đế, rồi nhờ sự giúp đỡ của nhà vua qui tụ được tất cả tàn quân Nãi-man; Miệt-nhi, lập thành một lực lượng riêng. Vốn có tham vọng lớn, Gút-Sơ-Lúc thông đồng với vua xứ Kharesm, một mặt bên ngoài đánh vào, một mặt bên trong ứng lên đoạt ngôi vua rồi chia hai xứ Tây-liêu.
Khởi đầu quân Tây-liêu thắng thế, nhưng dân ở kinh thành Balassaghoun vốn là dân Thổ bị Tây-liêu đô hộ, lợi dụng cơ hội nổi lên chiếm thành chống lại quân Tây-liêu. Trong cơn hỗn loạn, hoàng đế bị Gút-Sơ-Lúc bắt rồi trả ngôi lại, nhưng chỉ là hư vị, quyền hành bấy giờ ở trong tay người cháu rể. Sau khi hoàng đế băng hà, Gút-Sơ-Lúc mới đoạt hẳn ngôi báu, thi hành một chánh sách khắc nghiệt, tàn bạo. Vợ của ông là dân Cảnh giáo, chiều ý vợ ông ta cũng theo Cảnh giáo, rồi trở lại ngược đãi dân Hồi giáo thuộc thành phần đa số trong dân chúng. Ông ra lịnh đóng cửa tất cả đền thờ Hồi giáo, tịch thu tài sản, tổ chức những đội quân trú phòng quá đông đảo rồi bắt dân chúng phải đài thọ hết tổn phí...
Bộ Tổng tham mưu Mông-cổ biết rất rõ nội tình của Tây-liêu như nói trên. Thành-Cát-Tư-Hãn dựa vào nỗi bất bình của dân chúng liền sai Triết-Biệt thống lĩnh 2 vạn kỵ binh qua xâm chiếm. Thường lệ thì ông để cho viên chủ tướng trọn quyền chỉ đạo cuộc chiến tranh, nhưng lần nầy lại cho một khẩu lệnh vắn tắt: “Vượt qua biên giới rồi phải cho mở cửa tất cả đền thờ Hồi giáo và tuyên bố binh Mông-cổ đến là để giải phóng dân chúng, diệt trừ tên Gút-Sơ-Lúc tàn bạo.”.
Nhận thức rõ rệt tầm quan trọng và sức mạnh của cuồng tín, đại hãn đã lợi dụng sức mạnh đó để tiết kiệm xương máu quân đội. Lệnh mở cửa các đền thờ của Triết-Biệt có cái mãnh lực như sấm sét. Toàn thể dân chúng đều mừng rỡ cho rằng quân Mông-cổ là đạo quân bảo vệ tự do tín ngưỡng. Cho nên kị binh Mông-cổ chỉ cần kéo đến trước cửa thành thì tức khắc dân chúng trong thành rùng rùng nổi loạn, binh trú phòng phải bỏ trốn nếu không sẽ bị tàn sát tất cả. Cửa thành đều mở rộng, dân Hồi giáo kéo ra đón binh Mông-cổ như những ân nhân giải phóng cho mình. Vào thành Triết-Biệt giữ đúng lời hứa cấm ngặt quân sĩ không được động đến tơ hào của dân. Chẳng bao lâu tất cả miền Đông của đế quốc Tây-liêu lọt vào tay quân Mông-cổ; những đô thị quan trọng như Khami, Khotan, Kashgar đều bị chiếm đóng. Đòn chánh trị của Thành-Cát-Tư-Hãn làm cho uy quyền của Gút-Sơ-Lúc sụp đổ, tuy vậy ông ta vẫn cố gắng dàn ra một trận cuối cùng, quyết một mất một còn với quân địch. Nhưng quân Tây-liêu đã mất hết tinh thần, những cánh quân Hồi giáo đều bỏ khí giới đầu hàng. Sau cùng, Gút-Sơ-Lúc thảm bại, phải trốn trong vùng núi Pamic. Kỵ binh của Triết-Biệt truy nã ông ta khắp “nóc nhà của thế giới”. Cho tới lúc bọn lính cận vệ cũng bỏ rơi luôn, Gút-Sơ-Lúc bèn cùng với một ít người trung tín rút vào những hang núi hoang vắng gần biên giới Badachan.
Vị hoàng đế vong quốc không đáng cho một tên lính Mông-cổ đổ mồ hôi nữa. Triết-Biệt rút quân về thành để cho dân chúng tự động đi lùng kiếm ở khắp thâm sơn cùng cốc, sau cùng họ bắt được bạo vương đem về nạp để lãnh một giải thưởng lớn. Trong lúc đó binh Mông-cổ đoạt tất cả những bầy ngựa quí, một loại ngựa mõm trắng mà bọn thương nhân Trung-quốc thường phải qua tận thung lũng Đại-uyển (Fergana) mua về.
Triết-Biệt liền gởi thủ cấp của quốc vương cùng với 1000 con tuấn mã về dâng đại hãn. Chúa Mông-cổ hết sức hài lòng nhưng không quên cảnh giác viên chủ tướng: “Đừng nên kiêu hãnh thái quá! Ngươi nên nhớ những kẻ thất bại đều do lòng kiêu hãnh mà ra như Tô-Ha-Rin, Bai-Bu-Ka, hoàng đế Kim...”.
Bây giờ uy vũ của Thành-Cát-Tư-Hãn đã lên đến chỗ tuyệt đỉnh. Từ miền núi chọc trời (Pamir) cho tới đại dương, lệnh của ông truyền ra đều được tuân theo răm rắp.
Trong lúc đó ở phương Đông Mộc-Hoa-Lê vẫn kiên trì áp đảo dân Kim, kỳ chừng họ chịu khuất phục hẳn mới thôi. Truật-Xích cũng hoàn thành được nhiệm vụ của mình: vương tử phát động một cuộc báo thù nguội, thả quân đi lùng khắp rừng sâu núi thẳm tiêu diệt lần lượt từng bộ lạc Miệt-nhi còn trốn lẩn khuất. Trong cuộc tảo thanh, quân Mông-cổ bắt được một vương tử Miệt-nhi con của Tút-Sa-Bét - là một tay xạ tiễn đại tài. Truật-Xích không nhận thưởng để xin phụ vương tha mạng cho người tù binh đặc biệt ấy. Nhưng Thành-Cát-Tư-Hãn không chấp nhận; vốn có kinh nghiệm bản thân, ông cho rằng sự khoan hồng đối với một kẻ cựu thù chỉ tạo ra những cuộc chiến tranh mới. Dân Miệt-nhi là thứ bỉ ổi nhứt trong các giống dân tộc. Thằng con của Tút-Sa bây giờ là một con kiến nhưng với thời gian sẽ trở thành một con rắn độc, một địch thủ lợi hại của đế quốc Mông-cổ. Đã tiêu diệt biết bao là vua chúa và quân đội, thêm một người nữa có nghĩa gì?
Truật-Xích hết sức buồn bực nhưng rất sợ cơn thịnh nộ của phụ vương nên không dám thốt một lời nào nữa. Vương tử Miệt-nhi liền bị lôi ra pháp trường chặt đầu.
Sau đó Truật-Xích tiến sâu vào miền Khâm-sát, trút hết nỗi hằn học của mình vào hai bộ lạc Kirghise và Toumate là hai bộ lạc không chịu làm bổn phận phiên thần.
Đế quốc Tây-liêu sụp đổ cùng với sự xuất hiện của đạo binh lạ ở phía Tây sông Irtysh là một biến cố lớn làm cho các xứ Trung-á hết sức quan tâm. Cho tới lúc đó đám cầm quyền chỉ biết lờ mờ về Thành-Cát-Tư-Hãn qua lời tường thuật của bọn thương nhân Hồi giáo. Theo dân Hồi giáo thì ông là một nhà vua chuộng trật tự, ưu đãi thương nhân, thường giúp cho họ phát đạt thêm. Họ cho biết tin đại hãn đã chiếm nước Kim, một nước thật xa xôi ở phương Đông...
Lúc đó thế giới Hồi giáo đang ở dưới thế lực của một nhà đại chinh phục là Ala-Ed-Din Mohammed, quốc vương xứ Kharesm. Tổ phụ của Mohammed vốn là một tên nô lệ Thổ, được quốc vương xứ Seljuk phong cho làm phó vương một tỉnh ở hạ lưu song Amou Daria. Đến đời Mohammed thì ông thừa hưởng của thân phụ một lãnh địa độc lập từ bờ Caspienne cho tới miền Boukhara, và từ biển Aral cho tới miền cao nguyên Ba-tư. Ông cử binh đi chinh phục liên miên nới rộng bờ cõi ra khắp bốn phía: vượt qua sông Syr Daria, lên mạn Bắc chiếm một phần miền thảo nguyên Kurghise, phía Đông chiếm lãnh thổ Transoxianne bao gồm vùng Samarkande và đồng Đại-uyển (Fergana), phía Nam thì khuất phục tất cả những bộ lạc sơn cước ở A-phú hãn và bành trướng thế lực qua phía Tây thuộc đất Irak persan (persian?). Ông được suy tôn là “Cái bóng của Allah trên mặt đất”, là Alexandre thứ nhì, là Đại đế, là tay Bách chiến bách thắng.
Nuôi cái mộng cai trị trọn vẹn thế giới Hồi giáo, nên Mohammed xin giáo chủ ở Bagdad nhìn nhận ông là quốc vương, đặt dưới sự che chở của giáo chủ.
Vị giáo chủ ở Bagdad, tuy phần đời thế lực chỉ trong phạm vi miền Mésopotamie, nhưng ở phần đạo, ông là người lãnh đạo tối cao tất cả dân Hồi giáo, có một ảnh hưởng mạnh mẽ ở những nơi nào mà dân chúng sống theo “luật của đấng Tiên tri”.
Giáo chủ Nasir từ chối việc nhìn nhận Mohammed, cấm tín đồ không được nhắc tên của ông trong các buổi lễ công cộng, lại giúp cho các hoàng thân Hồi giáo còn độc lập liên kết lại chống ông. Bức thư từ chối của giáo chủ đến tay ông trong lúc ông đang chinh phạt xứ A-phú-hãn. Biết rõ âm mưu của giáo chủ, ông liền triệu tập một hội nghị Hồi giáo truất phế Nasir và cử lên một giáo chủ khác chống lại. Bây giờ có danh nghĩa, lật đổ Nasir không còn sợ phạm đến uy quyền thiêng liêng của giáo hội nữa.
Ngay lúc đang chuẩn bị cuộc chiến tranh nói trên thì Mohammed được tin cấp báo về vị hoàng đế ở phương Đông bên kia xứ Tây-liêu. Ông hoàn toàn không hiểu biết gì hết về xứ Mông-cổ, chỉ nghe nói có những cuộc chinh phạt lớn lao, cuộc chiến tranh ở cái nước Kim xa xôi nào đó, có kị binh Mông-cổ xuất hiện ở miền Kirghise. Thấy phòng xa là tốt ông liền đình chỉ việc đánh Bagdad, lo tăng cường phòng thủ những thành ở miền Bắc và miền Đông, đồng thời gởi một sứ đoàn qua Mông-cổ...
Thành-Cát-Tư-Hãn trái lại biết rõ thế giới Hồi giáo. Từ lâu rồi hàng ngàn vật dụng đủ loại thuộc sản phẩm của xứ Hồi đã được thông dụng ở xứ du mục: áo giáp sắt bắn không thủng, mũ chiến, mộc bằng thép, mã tấu sắc bén nổi tiếng... và cả những đồ trang sức lộng lẫy của phụ nữ, bình pha lê, thảm đủ màu sặc sỡ mịn như bông, hàng lụa tuyệt đẹp v.v...
Đại hãn nhờ đoàn sứ giả chuyển về quốc vương của họ một đề nghị: “Ta biết rõ quốc vương của các ngươi đang cai trị một đế quốc rộng lớn và hùng mạnh. Ngài là hoàng đế ở Tây-phương cũng như ta là hoàng đế ở Đông-phương, hai bên cần phải giao hảo với nhau. Ranh giới của hai đế quốc đụng nhau ở Khâm-sát nên ta đề nghị để cho bọn thương nhân của hai nước được qua lại tự do”. Thành-Cát-Tư-Hãn cũng gởi một sứ đoàn mang theo nhiều tặng phẩm qua đáp lễ quốc vương: bạc thoi, ngọc quí, vải dệt lông lạc đà, da quí... Và để làm hài lòng quốc vương ông chọn toàn là người Hồi, người Thổ-phồn và một số thương nhân ở Tân-cương, không có người Mông-cổ trong đó. Viên trưởng đoàn là nhà buôn Mahmoud Ieldalch.
Sứ đoàn Mông-cổ được quốc vương tiếp rước quá sức trọng thể khiến cho cả triều đình Kharesm vốn rất kiêu hãnh đều lấy làm ngạc nhiên. Rồi tới những câu hỏi: Quốc vương muốn biết đại hãn cai trị được nhiều dân tộc không; có thực đã chiếm được đế quốc Kim không; và sau cùng là câu hỏi có ẩn ý tìm hiểu coi đại hãn có mưu toan gì đối với Kharesm không. Quốc vương lại có ý cảnh cáo viên trưởng đoàn: “Ngươi là tín đồ Hồi giáo và gốc ở Kharesm, ngươi nên cho ta biết đúng sự thật, không nên giấu giếm điều gì. Ngươi hẳn đã biết sức hùng mạnh và sức rộng lớn của đế quốc ta. Quân đội của đại hãn có được như quân đội của ta không?”
Những lời nói trên rõ ràng có hàm ý đe dọa! Quốc vương có ý nhắc cho Mahmoud Ieldalch nhớ rằng ông ta là dân Kharesm, như thế quốc vương nghiễm nhiên là chúa của ông ta. Thế nầy thì lời đối đáp phải thật khéo léo không thể làm cho quốc vương nổi cơn lôi đình được. Mà đã là giáo đồ thì khi trở về tường trình với đại hãn cũng không thể tâu dối... Mahmoud nhớ tới bầy tuấn mã nai nịt yên cương cực kỳ sang trọng của quân Hồi với bầy chiến mã của Mông-cổ có vẻ gầy gò, xấu xí nhưng trang bị toàn những thứ cần thiết cho trận mạc... Ông ta đáp:
- Quân đội Mông-cổ làm sao có thể sánh được quân đội của một bậc chúa tể thế giới như ngài! Vẻ rực rỡ của hai bên khác nhau như ngọn đèn dầu leo lét bên cạnh vầng thái dương chiếu sáng cả thế gian. Họ như mặt một con quái vật cạnh dung mạo của một vương gia Thổ-nhĩ-kỳ. Và binh tướng của ngài quả đông gấp vạn lần quân Mông-cổ.
Nghe xong, Mohammed hớn hở mặt rồng. Thế là việc giao thương được cam kết theo đúng lập trường của hai nước. Bây giờ quốc vương mới yên tâm hội binh lại trẩy về phía Tây để thanh toán giáo chủ Nasir.
Tin Mohammed sắp tấn công báo về Bagdad cùng lúc với tin một đế quốc mới dựng lên ở phía đông A-phú-hãn. Giáo chủ liền cho dọ hỏi giới Cảnh giáo - vì bấy giờ tôn giáo nầy rất thịnh ở Á-đông - mới biết rằng “vị hoàng đế ở Đông-phương là một tín đồ Thiên-chúa giáo và là kẻ thù địch của Mohammed”.
Tin nầy sai lạc hoàn toàn do một sự ngộ nhận buồn cười.
Lúc Gia-Luật-Đại-Thạch gây dựng đế quốc, thế lực của ông lan rộng từ Ai-cập đến Pamir. Lúc ấy Thập tự quân đang đánh với quân Damas, nghe nói nhận định rằng gây hấn với Hồi giáo chắc phải là một vị hoàng đế Thiên-Chúa giáo. Việc ấy rất ăn khớp với tin ở phương Đông có một xứ lạ là xứ Ấn-độ; thế là theo tưởng tượng, người ta gán cho Gia-Luật-Đại-Thạch là “hoàng đế Ấn-độ theo Thiên-Chúa giáo” rồi đặt cho cái tên thánh “giáo sĩ Jean”.
Rồi thấy quân Seljoucide đã chiến thắng kị binh tinh nhuệ nhất của Thiên-Chúa giáo mà trở lại bị “đạo quân của Đông-phương” kia tiêu diệt, người ta lại đồn ầm lên quân ấy là quân của giáo sĩ Jean, một nhà vua mạnh vô song, có người còn gọi là Đại đế!
Chuyện trên được truyền tụng có gần một thế kỷ rồi.
Bây giờ đế quốc Seljoucide đã sụp đổ, Mohammed dựng lên đế quốc Kharesm, cử binh đánh với Tây-liêu. Lúc Gút-Sơ-Lúc vô Cảnh giáo, ngược đãi giáo đồ đạo Hồi, người ta càng tin chắc rằng cái đế quốc hùng mạnh ở Đông-phương là đế quốc theo Thiên-Chúa giáo, và hoàng đế của họ chính là con cháu của giáo sĩ Jean.
Vì hiểu lầm như thế, nên giáo chủ đạo Hồi - trong thế nguy - đành phải cầu cứu với Cảnh giáo chủ ở Bagdad.
Qua nhiều thế kỷ sống chung ở Bagdad, những mối mâu thuẫn, xung đột của hai khối tín đồ đã được san bằng, hai vị lãnh đạo tôn giáo trước sau vẫn thông cảm cho nhau. Cho nên hai nhà lãnh đạo liền cùng thảo chung một bức thơ gởi cho “hoàng đế Đông-phương” yêu cầu “hễ quốc vương Mohammed tấn công Bagdad. Hoàng đế hãy xua quân đánh Kharesm; chắc chắn sẽ đại thắng và thu hoạch được nhiều chiến lợi phẩm...”.
Nhưng có một vấn đề khó khăn đặt ra: làm thế nào để gởi bức thơ tới hoàng đế? Chỉ có một đường độc đạo qua phương Đông mà phải đi ngang lãnh thổ Kharesm, nếu sứ giả bị bắt, mật thư sẽ lọt vào tay quốc vương Mohammed. Sau cùng họ phải cạo tóc sứ giả, xăm ủy nhiệm thư bằng chữ xanh lên da đầu của hắn, rồi bắt hắn học thuộc lòng mật thư và chờ đến lúc tóc mọc lại như cũ hắn mới được khởi hành.
Nhưng sứ giả chưa đi tới thành Boukhara (ở Kharesm) thì cuộc diện đã thay đổi: Mohammed đã trẩy quân đi đánh Bagdad, Triết-Biệt đã đuổi “hoàng đế phương Đông” tức Gút-Sơ-Lúc chạy vào vùng núi Pamir.
Ở Samarkande viên sứ giả được các đoàn buôn từ Khâm sát xuống cho biết hoàng đế phương Đông là đại hãn Mông-cổ...
Ít hôm sau, bọn mã khoái từ Khâm-sát về cấp báo với Thành-Cát-Tư-Hãn: “Ở miền Kirghise có một người quần áo tả tơi tự xưng là sứ giả của giáo chủ ở Bagdad muốn xin bệ kiến đại hãn”.
Đại hãn đã có nghe bọn thương nhân Hồi giáo nói về thành Bagdad, một kinh thành đầy những kỳ quan ở nơi nào đó về phương Tây, ít có ai đi tới nơi vì chỗ ấy là chỗ tận cùng của thế giới. Đó là nơi Hồi giáo chủ đang ngự trị. Ngài là hậu duệ của Đấng tiên tri và là người lãnh đạo tối cao của tín đồ đạo Hồi”.
Mã khoái được lịnh phải hỏa tốc đưa viên sứ giả tới viên môn ở bên sông Onon.
Nhờ việc nầy mà lần đầu tiên mắt của Thành-Cát-Tư-Hãn mở rộng ra khỏi Trung-á. Ông mới biết Mohammed không phải là chúa tể ở phương Tây. Bên kia đế quốc của ông ta còn nhiều nước khác theo Thiên-Chúa giáo... thế giới chưa tận cùng.
Như thế ở phương Tây thế giới còn bao la vô tận và đâu cũng vậy, cũng xẩy ra những cảnh tượng vua chúa gây hấn đánh nhau, chưa đâu có một vị chúa tể làm bá chủ thiên hạ.
Riêng việc xung đột giữa Hồi giáo chủ và Mohammed, đại hãn không muốn nhúng tay vào. Theo mật thư ông cũng thấy Mohammed là một nhà vua bất công và tàn bạo, cho cướp bóc, đốt phá tài sản của tín đồ bất kể là tín đồ Hồi giáo hay Thiên-Chúa giáo. Nhưng việc giao thương với xứ Kharesm quả có lợi lớn lao, lâu nay các thương đoàn đi về rầm rập, đời sống của dân chúng có vẻ thịnh vượng hơn. Còn đối với hai vị giáo chủ thì ông chưa có chút thiện cảm nào. Tại sao có việc quái lạ như thế, hai nhà lãnh đạo tôn giáo lại gởi sứ giả tới xúi ông gây chiến với một nhà vua? Kẻ tu hành thì phải lo cầu nguyện chớ sao lại lo gây giặc với vua chúa? Và nếu Trời không giúp cho Mohammed thì sao lại phải giúp cho kẻ địch của ông ta?...
Thế rồi viên sứ giả nhận được phúc đáp giống y như sứ giả Tống trước kia: “Ta không muốn gây chiến với họ”.
Về sau khi tất cả những nước ở Trung-á bị Thành-Cát-Tư-Hãn dày xéo và dân Hồi giáo thấy được họa diệt vong, không ai quên được chuyện nói trên. Các sử gia Ả-rập nhận xét như sau: “Nếu những điều người Ba-tư nói là đúng sự thật và giáo chủ Nasir quả có kêu gọi quân Mông-cổ đến xứ nầy thì đó là một tội ác tày trời không có tội nào lớn hơn nữa!”.
Tuy nhiên cũng nhờ lần tiếp xúc ấy mà giáo khu của đạo Hồi - thành Bagdad - còn giữ được nền tự trị luôn 40 năm nữa. Qua lời tường thuật của sứ giả, người Mông-cổ cũng ngán thế lực của giáo chủ, cho nên bọn tướng lãnh của Thành-Cát-Tư-Hãn khi chinh phục được Trung-á rồi liền xoay lên hướng Bắc chiếm miền thảo nguyên của Nga. Cho đến khi Nga, Ba-lan, Hung-gia-lợi đều bị đè bẹp và các nước ở Tiểu-á bị thôn tính, Hồ-Lô-Hổ, cháu nội của Thành-Cát-Tư-Hãn, mới xua quân chiếm Bagdad (1258).
Cuộc trẩy quân tới Bagdad để lật đổ giáo chủ, ban đầu có vẻ thuận lợi. Dọc đường Mohammed diệt được những lực lượng của đám tiểu vương còn hùng cứ đây đó, và đi sâu vào miền Tây xứ Ba-tư. Chỉ còn phải vượt qua một vùng núi ngăn cách đồng Mésopotamie thì bất ngờ quân Kharesm gặp phải một mùa đông lạnh khốc liệt chưa từng thấy. Băng tuyết bao trùm hết núi non không thể nào leo qua được mà họ lại không sẵn những phương tiện ngự hàn. Binh sĩ không chịu nổi sức giá buốt, súc vật đều chết đói. Lúc ấy đang ở nửa đường Hamadan - Bagdad, họ đành phải quay trở về. Việc thối binh nầy chỉ có tính cách tạm hoãn lại cuộc chinh phạt...
Bỗng có tin từ miền đông cấp báo về: Gút-Sơ-Lúc - chúa Tây-liêu đã bị Triết-Biệt hạ sát. Bây giờ đế quốc của Thành-Cát-Tư-Hãn đã tiếp giáp với đế quốc của quốc vương ở biên thùy phía Bắc và phía Đông. Mohammed liền đem hết lực lượng án ngữ dọc theo hai con sông Amou-Daria và Syr-Daira, nghĩ rằng phòng thủ như thế sẽ giữ vững được giang sơn.
Nhưng tới đây nhà chép sử Ba-tư đã luận như sau: “Khi ngôi sao chiếu mệnh đã mờ rồi thì đại họa sẽ tới. Có mưu sự bao nhiêu cũng chỉ gặp kết quả ngược lại mà thôi; và dù ai có tài trí phi thường, mưu cơ xuất chúng cũng không cứu nổi Mohammed nữa. Cơ đồ của ông sẽ tan đi như mây khói do Định mệnh khắt khe mở ra. Trước đây nếu thần Thành công đã phi ngựa trước mắt ông, nếu sao hạnh phúc đã chiếu tới ông, cho ông thực hiện được nhiều ước vọng dễ dàng thì nay chắc chắn những tai họa lớn lao nhất sẽ bao phủ lên cuộc đời của ông; cuộc thoái binh ra khỏi miền Tây Ba-tư là một khởi đầu...”
Mohammed vừa tới thành Samarkande thì có mã khoái từ Otrar - một tiền đồn quan trọng ở biên thùy phía Bắc - về báo tin:
- Quan thống đốc vừa mới bắt giam một thương đoàn vì có bọn thám tử Mông-cổ trà trộn trong số con buôn Hồi giáo.
Quốc vương liền hạ lịnh:
- Giết sạch chúng nó đi! (1218)
Nhà chép sử Ba-tư viết tiếp: “Ban lịnh trên chẳng khác gì quốc vương đem cái đầu của mình ra để đánh cuộc. Một giọt máu của người Mông-cổ đổ ra thì thần dân của ông phải trả lại bằng một sông máu; một cái đầu rụng xuống phải trả bằng mấy mươi vạn cái đầu khác và mỗi đồng tiền tịch thu của họ phải trả bằng mấy trăm tạ vàng”.
Viên thống đốc Inaltchik liền chiếu lệnh đoạt tất cả những bảo vật cùng hàng hóa của đoàn buôn rồi sai giết tất cả 150 người gồm có những thương nhân, những người theo phục dịch, những người dẫn đạo. Chỉ có một tên nô lệ trốn thoát được và tới báo cho một tiền đồn Mông-cổ hay. Tức tốc hắn được đưa về tận viên môn tường thuật mọi sự cho đại hãn rõ.
Thành-Cát-Tư-Hãn không tin rằng một vị quốc vương đã long trọng cam kết để cho thương nhân hai nước qua lại buôn bán tự do mà bây giờ lại đột nhiên phản bội trắng trợn như thế. Đây chắc là viên thống đốc tự động làm mà quốc vương không hay biết.
Ông liền gởi một sứ đoàn qua yết kiến quốc vương yêu cầu phải nạp kẻ sát nhân cho Mông-cổ.
Ala-Ed-Din-Mohammed, “bóng của Allah trên mặt địa cầu” khi nghe sứ giả yêu cầu như thế vẫn ngỡ rằng mình nghe nhầm! Thứ đồ cẩu tặc, thứ tù trưởng man rợ mà dám tới chốn cửu trùng nói chuyện luật lệ à? Chúng có biết ta là chúa tể Đại-hồi-quốc, là A-Lịch-Sơn thứ nhì không?
Và đây là cách trả lời.
Quốc vương hạ lệnh đem chém phăng viên trưởng đoàn, còn đám tùy tùng thì cắt trụi hết râu thả về Mông Cổ.
Đối với người Mông Cổ, bị cắt râu tóc là một điều nhục nhã cực điểm; tư cách sứ giả là một thứ thiêng liêng bất khả xâm phạm. Lại cắt râu sứ giả của đại hãn quả là một chuyện kinh trời động đất.
Lúc hay tin Thành Cát Tư Hãn khóc rống lên giữa quần thần:
- Trời sẽ thấu hiểu rằng ta không phải là người muốn gây ra thảm hoạ!
Ông gào to lên:
- Trời sẽ ban cho ta sức lực hùng hậu để ta báo thù phen này!
Tức thì bọn mã khoái "tên bay" phi như mắc cửi khắp bốn phương tám hướng loan truyền lịnh xuất chinh. Từ núi Altai đến biển Hoàng Hải, tất cả người Mông Cổ trong tuổi 17 đến 60 đều phải giã biệt đoàn trại cầm khí giới lên đường; tất cả quân kỵ Khâm sát, tất cả những quân đoàn Thổ phồn, Khiết đan, Tây liêu, và đại đoàn pháo binh Trung quốc... trùng trùng, điệp điệp kéo đi tập họp, tiếng binh mã chuyển động ầm ầm khắp nẻo núi sông.
Chỉ có vua Tây hạ từ chối không gởi binh đến. Nhà vua nói với sứ giả: "Tới bây giờ Thành Cát Tư Hãn cũng chưa chấm dứt việc đàn áp các dân tộc hay sao? Nếu quân đội của ông ta không đủ sức để làm chuyện ấy thì tốt hơn là đừng làm!"
Đã trốn tránh bổn phận của một phiên thần mà còn dở giọng khinh mạn như thế khiến Thành Cát Tư Hãn không dằn được nữa, quát ầm lên:
- Ta sẽ xua quân làm cỏ bọn Tây hạ!
Ông trợn tròn đôi mắt, khí giận xung thiên:
- Ta quyết san bằng xứ ấy và giết cho sạch bọn cẩu trệ đó!
Nhưng sực nhớ món nợ máu ở Kharesm cần phải thanh toán trước tất cả, đại hãn dịu giọng tiếp:
- Ta đã quyết định rồi thì không bỏ qua. Sau này sẽ hay...
Chương XV
CHIẾN DỊCH KHARESM
Trời sẽ thấu hiểu ta đâu phải là
người muốn gây ra thảm hoạ
(THÀNH CÁT TƯ HÃN)
Bây giờ đại quân Mông Cổ chuẩn bị để chinh Tây gồm có 250,000 chiến sĩ. Điều đáng nói không phải là quân số đông đảo mà là cách tổ chức và cách trang bị cực kỳ chu đáo của họ, có thể nói không có quân đội nào thời ấy có thể sánh với họ được. Tất cả những kinh nghiệm rút tỉa trong chiến cuộc năm năm ở nước Kim đều được đem ra áp dụng một cách khôn khéo. Tài năng, kỹ thuật của các chuyên viên, thợ giỏi ngoại quốc đều tận dụng vào việc cải tiến kỹ thuật chiến tranh, tăng cường hiệu lực chiến đấu. Họ cố gắng chỉnh đốn từ những việc rất nhỏ nhặt cho đến tất cả những cơ cấu quân sự.
Binh chánh qui đều mặc đồng phục; lúc ở trại thì đội mũ lông, mang giầy da, vớ nỉ, khoác áo lông trừu. Lúc đi tác chiến đều mặc quần da ống chẽn, chân quấn xà cạp, mang dép. Áo khoác là một loại áo kép cũng bằng da, giữa độn lông thú hoặc bông, gọi là áo Dacha. Áo lót bên trong bằng loại tơ cực tốt, đề phòng khi trúng tên, ngạnh mũi tên chỉ nhấn mảnh áo xuống vết thương chớ không xé rách ra được và những mảnh sắt bể sẽ rớt ra ngoài. Quân thiết kỵ binh thì mặc áo giáp sắt gồm nhiều mảnh chồng lên như lông cánh chim.
Chiến sĩ được trang bị hai loại vũ khí: loại đánh giáp lá cà và loại tấn công mục tiêu ở xa. Mỗi tên lính có một cây gươm, một cây mã tấu, một cái chùy sắt, một cây câu liêm để giựt kẻ địch xuống ngựa. Trên cánh tay trái của họ lại có một cây đoản đao thật sắc gài trong một cái vòng da.
Người nào cũng có hai cây cung với hai túi tên đựng nhiều loại khác nhau: tên đâm thủng áo giáp, tên lửa, tên tẩm thuốc độc... và trong hai thứ túi ấy, có một thứ đặc biệt không thấm nước. Lợi hại nhất là cây cung, một loại cung đặc biệt có ba đoạn uốn (arc à triple courbure) chớ không suông như loại cung của Tây phương. Mỗi cây cung là một công trình tuyệt mỹ của người thợ, một tổng hợp nhiều vật liệu như tre, gỗ, sừng, gân, da... xạ lực tới 400 thước. Các sử gia đều nhận rằng chính cây cung ấy là một yếu tố chiến thắng của quân đội Mông Cổ.
Ngoài ra mỗi người có một số lao, lao ngắn, lao dài, và một dây thòng lọng thật nhạy bằng lông đuôi ngựa một khi tung ra thì không bao giờ trật mục phiêu. Cho đến thời Nã Phá Luân, người Nga còn dùng đạo quân Kalmouk (hậu duệ Mông Cổ) sử dụng thòng lọng thần tình; trong một trận tấn công họ dùng thòng lọng lôi địch quân đang phi ngựa xuống đất và kéo xểnh đi, khiến cho từ đó hễ nghe nói đến quân Kalmouk, quân Pháp đều sợ thất thố.
Mỗi kị binh Mông Cổ đều có ba hoặc bốn con ngựa để thay đổi. Trên lưng ngựa đều có sẵn một cái mộc tròn bằng da cung tên không thể xuyên thủng được, một bình đựng koumiss, một túi đựng thịt khô, pho mát cứng, và túi đựng những thứ cần thiết như kim chỉ, giũa, v.v...
Mỗi đội quân đều có những đơn vị trợ chiến:
- Một tiểu đoàn pháo binh, sử dụng xe bắn đá dễ tháo ráp do trâu Yak hoặc lạc đà kéo; xe phóng hỏa pháo, đại bác để phá hủy những vọng đài và tiêu diệt quân phòng thủ trên mặt thành. (Họ đã có thuốc nổ trước Berthold Schwaiz bên Âu châu 10 năm).
- Một tiểu đoàn công binh do các chuyên viên Trung quốc phụ trách, lo mọi việc xây cất trên bộ hoặc dưới nước, như bắc cầu, đắp đê, khai kinh, tháo nước... (binh đoàn của Sát Hợp Đài lúc tiến đến sông Syr-Daria đã bắc tất cả 48 cái cầu.)
Ngoài ra lại có tổ chức thanh tra, giao cho nhiều sĩ quan phụ trách việc kiểm soát vũ khí và quân trang của từng đội quân; người lính nào không thi hành đúng lệnh sẽ bị phạt, luôn cả cấp trên trực tiếp của họ. Những đạo tiền quân đều có hành dinh đặc biệt, chuyên lo việc chọn địa điểm đóng quân cho từng đơn vị; hành dinh chuyên kiểm soát đồ đạc sau lúc nhổ trại, không để bỏ sót một món gì và hành dinh chuyên thu thập, phân phát chiến lợi phẩm.
Trận Đại uyển (Fergana)
Mùa đông năm 1218, chỉnh bị binh mã xong xuôi, Thành Cát Tư Hãn liền di chuyển tới thượng lưu sông Irtysch. Phải chờ cho tuyết tan mới có thể đi qua "cửa Dzoungarie".
Từ thời xa xưa, các bộ lạc du mục trên cao nguyên Đông Á hễ qua xâm lăng miền Tây là phải qua cửa ngõ Dzoungarie nầy. Muốn tới Syr-Daria phải đi ngang nhiều sa mạc không có lấy một vũng nước, một bụi cỏ, mà quân viễn chinh Mông Cổ thì tới những 25 vạn người và một triệu chiến mã. Nếu không có một ngõ nào khác thì thật là nan giải. Nước Kim có cái biên giới dài 5,000 c.s. có thể chọn một ngõ vào dễ dàng. Nhưng với đế quốc Kharesm thì khác hẳn: biên giới của họ có những bức tường thiên nhiên che chở, những dãy núi cao sừng sững trên 7,000 thước không thể nào vượt qua được. Nếu vòng lên đồng cỏ mạn Bắc phải đi xa thêm gần một ngàn c.s. mới tới vùng trù mật có thủ đô Samarkande và thành Boukhara - một đô thị rất phồn thịnh.
Lúc bộ tổng tham mưu (Iourt Dchi) đang cố gắng tìm một con đường trẩy quân thì bỗng có tin của Triết Biệt từ Tây liêu gởi về. Viên thượng tướng vừa khám phá một sơn đạo đi Tây á: một độc đạo dẫn tới đế quốc Kharesm. Đường nầy có thể đi thẳng tới miền Đông đế quốc ấy, hoặc lên mạn Bắc qua sông Syr-Daria.
Thành Cát Tư Hãn liền sai Truật Xích thống lĩnh một binh đoàn đến Kashgar trợ lực tướng Triết Biệt.
Bấy giờ đang giữa mùa đông nhằm tiết nghiêm hàn, đoàn người ngựa Mông Cổ vẫn cứ lao mình lên con đường xa xăm mù mịt - con đường mà chính các đạo quân của Hannibal và Nã Phá Luân chỉ mới nhìn thấy mà đã rùng mình thất sắc. Ba mươi ngàn quân Mông Cổ lặng lẽ tiến bước trên đèo cao ngút ở giữa hai rặng Pamir và Thiên sơn, giẫm lên lớp tuyết cao khỏi đầu người giữa cái lạnh vỡ mạch máu và cóng chân ngựa. Họ bám theo những triền núi phủ băng giá cheo leo trên 4,000 thước, trên thượng đỉnh các dãy núi Kisil-Art và Terek-Davan. Thỉnh thoảng lại gặp một trận bão tuyết dữ dội, kẻ nào sơ ý một chút là bị gió cuốn xuống vực thẳm. Chân ngựa phải bao một cuộn da trâu Yak, chiến sĩ đều mặc áo Dacha. Lắm lúc kiệt sức quá, họ phải cắt mạch máu ngựa uống một ít huyết rồi băng lại. Càng tiến xa càng phải giảm sức nặng thừa thãi, phải bỏ lại dọc đường tất cả những cái gì không thuộc vào thứ tối cần. Dọc đường họ gặp rải rác đây đó những người chết đói hoặc chết lạnh, những bộ xương ngựa nhẵn bóng vì có chút thịt nào thì một ít khách qua đường đã ăn hết rồi.
Sau muôn ngàn nỗi gian nan và bao ngày chịu đựng sự thiếu thốn đến cực độ, một hôm tầm mắt họ mở rộng ra trước một thung lũng mênh mông xanh rờn: thung lũng Đại uyển (nay thuộc Nga) một nơi trồng nho, lúa mạch, sản xuất tơ lụa và đồ trang sức lộng lẫy, đồ thủy tinh bóng lộn, nhất là ngựa, từng bầy ngựa nhởn nhơ trên cánh đồng dáng thật quí phái. Ở đây đang giữa mùa xuân.
Xuống tới thung lũng thì các toán quân tiền quân Mông Cổ liền tràn vào làng mạc cướp súc vật. Ngay lúc ấy quốc vương Mohammed dẫn một đoàn quân hùng hậu tới. Thấy đám quân Mông Cổ người hốc hác tiều tụy, ngựa gầy gò, quốc vương đã chạnh lòng thương hại! Vừa mới xáp chiến quân Mông Cổ đã tìm đường tẩu thoát, nhưng tài bắn cung của họ đã làm cho quốc vương phải thầm phục. Quân Kharesm đuổi theo đến tận đèo không ngờ gặp đại quân của Truật Xích đông hơn họ gấp bội và trang bị hơn thật đầy đủ. Họ lại khoẻ và đang khao khát chiến đấu.
Triết Biệt chưa muốn ứng chiến, định rút sâu vào trong núi nhử cho quân thiện chiến Kharesm đuổi theo càng xa sông Syr-Daria càng tốt để cho quân của đại hãn mặt khác đánh một đòn quyết định. Nhưng Truật Xích lại muốn xuất trận. Vương tử nói: "Nếu rút lui, ta biết trả lời như thế nào với phụ vương ta?"
Quân Kharesm mở màn cuộc tấn công bằng những hồi kèn và những tiếng chuông vang dậy trời đất. Quân Mông Cổ liền tràn xuống giao chiến; họ thét lên những tiếng khủng khiếp và thỉnh thoảng rú lên từng hồi thật ghê rợn. Cách điều động của họ thật kỳ lạ; ra lịnh bằng những cây hiệu kỳ nhỏ, hình thể và màu sắc khác nhau; đang kịch chiến bỗng dưng rút lui tản ra làm nhiều cánh, rồi đột nhiên hội lại tấn công ở mặt khác, khiến quân địch không biết ý định của họ ra sao nữa. Bất ngờ họ tấn công mãnh liệt vào trung quân Kharesm, xuýt chút nữa quốc vương bị bắt sống. Thái tử Djélal-Ed-Din liền xua hết cánh quân của ông phản công dữ dội. Truật Xích cũng suýt bị bắt, may nhờ một viên tướng xông ra tử chiến mới cứu thoát được. Hai bên đánh vùi vẩn cho đến tối, bất phân thắng bại, sau cả hai đều lui quân về vị trí đóng trại.
Tờ mờ sáng hôm sau, quân thám mã Kharesm đến dọ dẫm trại Mông Cổ thì chỉ còn thấy một khoảng đất trống không rải rác những xác người. Họ không ngờ thừa đêm tối quân Mông Cổ đổi ngựa khoẻ, mang hết thương binh và súc vật rút về phía Đông cách đó một ngày ngựa.
Quốc vương hớn hở cho rằng đã thắng trận, rút quân về kinh đô mở tiệc khao quân, thăng thưởng cho các cấp.
Tuy nhiên Mohammed hết dám khinh địch nữa, ông thú nhận chưa bao giờ gặp một địch thủ "quá can đảm và nhanh nhẹn như vậy"; liền gấp rút tăng cường lực lượng và tung một số thám tử qua Mông Cổ theo dõi hành động của Thành Cát Tư Hãn.
Kashgar là căn cứ xuất quân của Truật Xích và Triết Biệt, cách Mông Cổ những 3,000 c.s. mà nơi án binh của họ hiện giờ lại cách Kashgar 2,000 c.s. nữa, chặng nầy có biết bao nhiêu là quần sơn vạn thác và sa mạc hoang vu, lại thêm đường đèo Kisil-Art và Terek-Davan thật khủng khiếp, vậy mà không bao giờ họ đứt liên lạc. Chừng như không có thứ gì ngăn cản được vó ngựa của đoàn mã khoái "Tên bay".
Nghe xong báo cáo về trận Đại uyển, đại hãn lại hạ lịnh cho Truật Xích phải tiến đánh một trận nữa, đồng thời phái 5000 quân xuống mặt Nam đế quốc, tức là tới thượng lưu sông Amou Daria xâm nhập vùng lưu vực con sông này. Xuống mặt Nam có nghĩa là phải vượt muôn trùng ngọn núi Altai cao từ sáu đến bảy ngàn thước. Trên mặt Bắc, đại quân của Thành Cát Tư Hãn chia làm nhiều đạo kéo đi như nước lũ. Sát Hợp Đài thống lĩnh đạo thứ nhất, Oa Khoát Đài đạo thứ hai, đại hãn và Đài Lôi đạo thứ ba, cùng đi có quân sư Chu Thai và trọn bộ tổng tham mưu.
Ngay buổi đầu, nhờ tài tiên tri ứng nghiệm, Chu Thai đã chiếm được lòng tin của đại hãn. Có lần bọn chiêm tinh Tây phương báo rằng sắp có nhật thực, Chu Thai quả quyết là chưa có... Quả nhiên nhật thực chỉ xảy ra đúng vào ngày ông tiên đoán. Từ đó Thành Cát Tư Hãn tin Chu Thai hơn tất cả những bốc sư phù thủy nào khác. Hơn nữa lý luận của ông ta đều xác đáng, thiết thực, cho nên không có việc trọng hệ nào đại hãn không hỏi ý kiến ông ta. Vì thế mà bọn quí tộc ganh tị, nhất là việc nâng ông ta lên hàng quân sư tham dự cuộc viễn chinh. Một nhà quí tộc có biệt tài chế tạo cung tên bất bình nói lên:
- Chẳng biết lão già mọt sách ấy đi theo cuộc hành quân để làm cái quái gì?
Thành Cát Tư Hãn nghe được mới hỏi Chu Thai:
- Ông nghĩ sao về lời nói ấy?
Chu Thai nở nụ cười trầm tĩnh đáp:
- Nếu muốn làm cung tên thì người ta cần những tay thợ giỏi về nghề ấy. Nhưng muốn chinh phục một đế quốc làm sao có thể không dùng những tay thợ về thuật cai trị?
Bây giờ là mùa hạ, quân Mông Cổ trẩy đi dưới cái nắng chang chang thiêu người. Họ vừa vượt qua một vài dãy núi thấp, hốt nhiên trời tối sầm lại, tuyết rơi phơi phới khắp cùng, chỉ trong mấy hôm tuyết phủ bạc phau. Quân Mông Cổ phải dừng lại. Đại hãn lấy làm lo âu trước một hiện tượng khác thường như thế, muốn quay trở về. Chu Thai giải thích như sau: "Giữa lúc chúa Hạ đang trị vì bỗng chúa Đông xuất hiện, chẳng khác nào chúa phương Tây đang cai trị thì chúa phương Bắc tới. Điềm trời cho biết đại hãn sẽ thắng quân Kharesm."
Lời giải thích rõ ràng nhưng đại hãn muốn thử kiểm lại; theo cách thức cổ truyền, ông lấy một mảnh xương vai trừu bỏ vào lửa đồng thời lâm râm đọc một bài chú. Một lát sau lấy mảnh xương ra xem xét những vết rạn nứt: đường sinh mạng của ông thật tốt; có một số đường nứt ngang cho biết sẽ có một số thân vương, quí tộc, một số người tùy tùng tử trận; nhưng đường hạnh phúc thì thật rõ ràng.
Đại hãn quyết định tiếp tục cuộc hành trình.
Mohammed hội được 400,000 quân nhưng không dám xua ra đại chiến với quân Mông Cổ vì theo tin tức của bọn thám tử gởi về thì "quân địch trùng trùng điệp điệp như ổ kiến, như bầy châu chấu. Chiến sĩ của họ hung hãn như sư tử..."
Từ sông Irtysh đến sông Syr-Daria còn những 1,500 cây số. Phải vượt qua bao nhiêu là đèo cao, sông rộng, và rừng già âm u; phải vượt qua cái sa mạc nổi danh là "Sa mạc Đói khát", không có lấy một giọt nước, một bóng sinh vật, mà với số quân mã như thế kẻ địch làm thế nào được? Nghĩ như trên quốc vương thấy thượng sách là cứ an tâm chờ đợi. Ấy là chưa kể khi đến con sông Syr-Daria rồi, người ngựa đều mệt mỏi mà đụng phải những thành trì kiên cố, lương thực sung mãn và phòng thủ rất nghiêm mật. Giả thử địch quân có chọc thủng được một nơi nào trong hệ thống phòng thủ, quốc vương vẫn còn lực lượng phòng bị đang tập trung ở gần Samarkande, một khi tung lực lượng nầy ra địch sẽ bị đẩy xuống sông Syr-Daria...
Lần nầy đạo quân của Triết Biệt tràn xuống khắp thung lũng Đại uyển, lần lượt chiếm các đô thị và bao vây thành Kholchent, một ải địa đầu che chở cho đế đô.
Sát Hợp Đài và Oa Khoát Đài đã xuất hiện trên thượng lưu sông Syr-Daria, chiếm một loạt những điểm tựa và vây hãm thành Otrar.
Hai thành nói trên quả thật kiên cố, quân Mông Cổ bao vây suốt mấy tháng trời mà vẫn chưa hạ được. Cho nên Mohammed vẫn cứ án binh chờ coi đại quân của Thành Cát Tư Hãn đánh mặt nào. Bỗng có liên lạc từ mặt Nam, cách kinh đô 400 c.s., chạy hỏa tốc về báo cáo: binh đoàn của Triết Biệt đã vượt qua dãy Pamir xuống chiếm vùng thượng lưu Amou-Daria, đang cướp phá lung tung. Tới đây quốc vương cũng chưa thấy chiến lược của quân Mông Cổ; nghe nói làng mạc, thành thị bị cướp bóc, đốt phá cho rằng chưa có gì trầm trọng; không ngờ đó là một mối nguy lớn lao: mất thung lũng Amou-Daria tức là bị địch cắt miền Nam đế quốc, gồm có A phú hãn và Khoresan. Mohammed chỉ phái một số quân phòng bị đi chống đạo quân của Triết Biết. Lúc đạo quân nầy vừa trẩy đi thì một tin khủng khiếp báo về: đại quân của Thành Cát Tư Hãn xuất hiện ở phía Tây đang trực chỉ tiến về Boukhara thế như chẻ tre.
Thật khó tin! Theo báo cáo thì Thành Cát Tư Hãn hội quân ở một địa điểm nào đó về phía Đông, bây giờ sao có thể xuất hiện ở phía Tây? Làm thế nào họ bọc ra phía hậu đế quốc Kharesm được? Nhưng những kẻ tị nạn từ các thành thị làng mạc bị tàn phá lũ lượt kéo về đủ xác nhận nguồn tin trên.
Thành Cát Tư Hãn dẫn 50,000 quân đánh vòng lên mặt Bắc vượt qua sông Syr-Daria, rồi trẩy qua sa mạc Kisil-Koum rộng 600 c.s., một sa mạc nổi tiếng không thể qua được (650 năm sau lúc đánh với quân Khiva, đoàn kỵ binh Nga đã thất bại nặng nề vì ngựa chết sạch khi qua sa mạc nầy.) Đại hãn đã vào vùng hạ lưu Amou-Daria đánh ở mặt hậu quân Mohammed.
Bây giờ, phía Tây thì Thành Cát Tư Hãn, phía Bắc, Sát Hợp Đài và Oa Khoát Đài, phía Đông Truật Xích, phía Nam, Triết Biệt, quốc vương ở giữa một cái lưới đang từ từ khép lại. Ông vội vã rút một số quân nữa về tăng cường Samarkande và Boukhara. Muốn chạy lên Tây Bắc, lên chính quốc Kharesm thì đã có quân Mông Cổ án ngữ ở đó. Quốc vương vội vàng đào tẩu xuống miền Nam trước lúc quân của Triết Biệt đóng kín mặt này.
San bằng thành Boukhara
Boukhara là một trung tâm điểm của văn minh Hồi giáo, một đô thị nhiều trường học, nhiều hoa viên, biệt thự và vô số nhà hiền triết. Tường cao, hào sâu, nhưng lực lượng phòng thủ thật yếu ớt, vì không ai nghĩ rằng địch quân sẽ tới đây. Dân chúng trong thành đa số là người Ba tư, nhưng quân trú phòng hầu hết là người Thổ (Turc). Các tướng Thổ muốn giao chiến với địch quân trên bờ sông Amou-Daria để có thể gởi thêm quân tiếp viện, nên thừa đêm tối họ kéo hết quân tinh nhuệ ra một cửa thành không có địch quân án ngữ.
Nhưng chiến thuật sở trường của quân Mông Cổ là bao vây mà chừa một ngõ thoát cho địch; lúc quân Thổ lẳng lặng kéo ra, họ im lìm chờ đợi để rồi bám sát theo gót đến rạng ngày hôm sau thình lình đánh tập hậu, diệt trọn đạo quân địch. Dân trong thành liền mở toang các cửa cho họ vào (10 hay 16 tháng 2-1220).
Binh Mông Cổ tràn khắp các nẻo đường. Thành Cát Tư Hãn và Đà Lôi tế ngựa đến trước cửa một tòa nhà đồ sộ ở giữa thành, ngỡ là cung điện của quốc vương. Đến lúc gọi một người dân đến hỏi, đại hãn mới biết đó là đền thờ Allah, rồi giục ngựa trèo lên các bậc thềm, xuống đứng giữa giảng đường truyền lệnh cho dân chúng: "Hiện nay quân ta đang thiếu lương thảo, ngựa đang đói, binh đang thiếu ăn. Các ngươi về mở tất cả kho vựa ra!"
Nhưng lúc bọn giữ kho mang chìa khóa tới thì binh Mông Cổ đã phá vỡ hết các cửa rồi.
Họ ăn uống ầm ĩ, cuồng loạn, lại bắt bọn ca nhạc đến đàn hát tưng bừng, trong lúc ấy bọn quyền quí trong thành đều phải đi tắm ngựa, giữ ngựa cho họ. Những cái rương đựng kinh Coran chạm trổ rất tinh vi đều đem ra làm máng cỏ; sách vở tung ra khắp mặt đường cho ngựa dẫm tơi tả. Bọn tín đồ Hồi giáo không thể nào hiểu nổi những hành động kinh tởm như vậy. Có người xoay qua hỏi lão thầy tu đang giữ một con ngựa Mông Cổ:
- Nầy Mevlana! Tại sao chúng nó làm như thế? Sao thầy không cầu khẩn Allah dùng sấm sét đánh tan quân man rợ đó cho rồi?
Lão thầy tu rưng rưng nước mắt đáp:
- Ngươi hãy bình tĩnh lo cho tròn công việc của ngươi đi. Cầu khẩn Allah, có lẽ chúng ta còn bị trừng phạt nặng nề hơn. Đây là cơn phẫn nộ của Ngài đối với dân ta.
Chính Thành Cát Tư Hãn muốn cho dân Hồi giáo nhận định cuộc xâm lăng của Mông Cổ là "cơn phẫn nộ của Allah".
Ông chỉ nghỉ trong giây lát rồi hạ lịnh lùa hết dân Boukhara đến một khoảng đất rộng nghe tuyên bố. Một viên thông ngôn dịch lại:
- Ta là hung thần của nhà Trời! Trời đã giao các ngươi cho ta trừng phạt vì các ngươi là những kẻ dẫy đầy tội lỗi. Và chính bọn cầm quyền đã dẫn dắt các ngươi vào vòng tội lỗi!
Đại hãn trình bày cho họ thấy rằng quốc vương và bọn cầm quyền của họ đã bội ước, gây hấn, rồi cảnh cáo họ là không được giúp đỡ cho bọn ấy bất cứ phương diện nào. Lại gọi riêng đám tai mắt, đám phú hộ trong thành đến nghe lịnh: "Tất cả của cải, đồ tế nhuyễn trong nhà đâu phải để đó cho quân đến lấy. Những thứ còn chôn giấu phải bới lên và đem đến nạp."
Liền đó lính Mông Cổ dẫn 280 người đến những chỗ chôn giấu bảo vật của họ: ai thành thật giao nạp đều được trả tự do.
Dân chúng bị bắt buộc phải đi truy nã số quân trú phòng còn lại đang rút lui theo những con đường về nội thành. Binh Mông Cổ theo sau đốc thúc và đốt trọn khu phố có bọn ấy ẩn núp, lửa cháy lan tràn khắp cả thành phố. Cuộc tấn công nội thành còn kéo thêm hai ngày nữa, sau cùng họ cũng chiếm được và giết sạch 400 quân kháng chiến.
Dân chúng lại bị huy động đi triệt hạ các tường thành, vọng lâu, lấy đá lấp bằng hào hố ở chung quanh. Xong đâu đó, Thành Cát Tư Hãn chỉ để lại vài đại đội tiếp tục cuộc tảo thanh còn đại quân thì tiến đến Samarkande tìm Mohammed.
Đến lúc Boukhara đã thành bình địa, binh Mông Cổ còn gom dân chúng lại một lần nữa chọn hàng trai tráng, khoẻ mạnh gởi đi Samarkande dùng làm bình phong cho quân xung kích, còn lại bao nhiêu đều thả về.
Mọi việc xảy ra đều quá đột ngột, nhanh chóng và khủng khiếp, khiến cho dân chúng người nào còn sống sót cũng gần như mất trí. Một thương nhân được thả về liền trốn xuống Khoressan, gặp dân chúng ở đây bu lại hỏi trăm chuyện, mà ông chỉ còn nhớ có bao nhiêu: "Họ kéo tới, lục soát, đào bới, san bằng, giết hết, cướp hết rồi đi mất hết!"
Chiếm Samarkande, thủ đô Kharesm
Bấy giờ Truật Xích đã hạ được thành Kholchent, vượt qua thung lũng Đại uyển. Kholchent là một thành phố thương mãi giàu có ở địa đầu được phòng thủ kiên cố và dân chúng có tiếng dũng mãnh. Thống đốc ở đây là Timour Melik, một trong những viên tướng đảm lược nhất của Mohammed. Lúc địch quân tràn vào thành, ông ta rút vào nội thành xây trên một hòn đảo ở giữa sông. Quân Mông Cổ bắt tù binh mang đá xông dưới làn mưa tên lấp trọn một khúc sông làm con đường thẳng đến chân thành. Lúc sắp xong thì Timour rút quân xuống một đội chiến thuyền xuôi theo dòng Syr-Daria tẩu thoát. Hai bên hông thuyền của họ đều che vỉ trát đất sét để ngừa tên lửa. Binh Mông Cổ giăng một đỏi sắt ngang sông chận họ lại, nhưng giây đỏi bị thuyền phá đứt. Họ lại xuống phía dưới dòng giăng thuyền ngang sông, trên đặt xe phóng hỏa và xe bắn đá chờ đợi. Timour phải cho thuyền tấp vào bờ đổ lên bộ. Quân Mông Cổ đuổi theo tiêu diệt gần trọn đạo binh, chỉ có Timour trốn thoát chạy về với Djélal-ed-Din, con của Mohammed.
Sát Hợp Đài và Oa Khoát Đài mất hết 5 tháng mới chiếm được thành Otrar. Thống đốc Inaltchik - người đã giết thương đội Mông Cổ - biết địch quân chẳng dung tha mình nên quyết chống cự đến kỳ cùng. Mất thành ngoài, ông rút vào nội thành cầm cự thêm một tháng nữa. Lúc bị quân Mông Cổ tràn ngập, ông ta rút lên thượng lâu, bắn hết tên rồi cạy gạch chọi xuống.
Nhưng quân Mông Cổ được lịnh phải bắt sống. Họ đem chất nổ đến phá vách thượng lâu và lôi ông ta từ trong đống gạch vụn ra. Viên thống đốc bị xiềng lại giải tới đại hãn ở Samarkande; ông ta bị đổ bạc sôi vào mắt, vào lỗ tai và bị tra tấn cho đến chết.
Ở miền Đông Nam, Triết Biệt đánh tan nát đạo quân của quốc vương gởi tới, chiếm gần hết những thị trấn quan trọng.
Bây giờ tất cả các binh đoàn chiến thắng đều kéo đến trước cửa thành Samarkande.
Đây là kinh đô của đế quốc Kharesm, nơi quốc vương Mohammed ngự trị, có chợ búa phồn thịnh, nhiều thư viện quan trọng, nhiều dinh thự lộng lẫy, với nửa triệu dân và 100,000 quân trú phòng; đây là chỗ phòng thủ kiên cố hơn hết trong đế quốc. Vì thế mà Thành Cát Tư Hãn phải đích thân chỉ huy đại quân. Cả ba binh đoàn đều có dẫn theo tất cả tù binh dùng vào việc công hãm thành, vì bọn tù binh và bọn đào ngũ đều cho rằng phải mất nhiều năm mới chiếm được Samarkande.
Suốt hai ngày liền, Thành Cát Tư Hãn cỡi ngựa đi xa xa quanh thành để quan sát. Thấy những bức tường thành cao sừng sững, những vọng gác đồ sộ, những cửa sắt nặng nề cùng những công trình phòng thủ kiên cố, đại hãn nhớ tới những đợt công hãm vô hiệu quả ở Yên kinh, đế đô của nước Kim.
Nhưng một tù binh cho biết quốc vương Mohammed không còn ở trong đó. Như thế Samarkande đối với đại hãn không còn quan trọng nữa. Ông nói với các tướng bằng một giọng miệt thị: "Thành quách chỉ kiên cố khi quân thủ thành can đảm kìa!"
Rồi cắt hi viên tướng tài giỏi hơn hết: Tốc Bất Đài người nhiều mưu lược, Triết Biệt chuyên hành binh thần tốc, cùng với phò mã Đô Gu Sa, mỗi người lãnh một vạn phu truy đuổi theo Mohammed.
Quả là một sứ mạng táo bạo gần như ngông cuồng! Lúc ấy quân Mông Cổ chỉ mới chiếm được những thành ngoài biên cảnh, thành Boukhara và một ít thị trấn trên vùng đất từ sông Syr-Daria đến sông Amou-Daria. Đế quốc Kharesm còn trải rộng hàng mấy ngàn cây số qua phía tây và xuống phía Nam. Binh mã của họ nhiều không kể xiết và còn những 12 cái thành cỡ thành Boukhara, Samarkande. Vậy mà đại hãn chỉ cho có 30 ngàn quân đi săn đuổi vị quốc vương qua suốt đế quốc của ông ta.
Thật ra Thành Cát Tư Hãn biết rất rõ việc làm của mình. Ông cho áp dụng trở lại chiến thuật mà Triết Biệt đã chinh phục đế quốc Tây liêu gần như không hao tốn xương máu binh đội. Nhưng lần này khôn khéo hơn, thích hợp với tình hình Kharesm.
Trên dải đất mênh mông nầy có tất cả 12 giống dân từ trước đến nay đã phục dịch cho bộ lạc của mình hoặc cho đế quốc trong lúc chinh chiến. Nếu Mohammed gọi họ dấy lên thì nguy hiểm vô cùng, chẳng những cho 30 ngàn quân truy kích mà còn nguy cho toàn thể quân viễn chinh Mông Cổ. Vì thế mà không cần triệt hạ thành trì làm gì nữa. Chỉ cần bắt cho được quốc vương trước khi ông ta có đủ thì giờ kêu gọi dân chúng và tổ chức quân đội kháng chiến. Phải làm cho ông ta kinh hoàng đến cực độ, chỉ lo chạy thục mạng mà thôi. Phải tách rời ông ta với dân chúng; phải cho dân chúng thấy rằng vận mệnh của họ không liên hệ gì tới vận mệnh của quốc vương. Cho nên đại hãn ra lịnh cho các tướng như sau:
- Chưa bắt được hắn các ngươi không được phép trở về. Cứ đuổi theo hắn khắp lãnh thổ. Chớ động tới những thành đã chịu hàng phục. Nếu nơi nào chống lại thì cứ thẳng tay hủy diệt.
Ông ban cho Tốc Bất Đài một tờ hiểu dụ bằng chữ Thổ phồn có dấu ấn đỏ của đại hãn: "Nay truyền cho các khả hãn, các thân vương và toàn thể dân chúng biết: đại tướng Tốc Bất Đài được toàn quyền hành động trên khắp mặt địa cầu, từ xứ mặt trời mọc đến xứ mặt trời lặn. Kẻ nào sớm qui hàng, được xá tội; kẻ nào dùng vũ khí chống lại hoặc phản phúc sẽ bị tận diệt."
Đại hãn lại lưu ý theo dõi xem các tướng có thi hành đúng lệnh không. Có một thành đã hàng phục binh đoàn tiên phong của Triết Biệt, vậy mà sau đó khi kéo ngang qua Tô Gu Sa đã để cho binh sĩ cướp phá. Nghe báo cáo, đại hãn nổi cơn lôi đình lên toan xử tử ngay phò mã. Nhưng lúc nguôi cơn giận, ông sai một tên lính đến truyền lịnh cho Tô Gu Sa "phải giao quyền chỉ huy lại cho Tốc Bất Đài, xuống làm lính xung kích trong binh đoàn này."
Kỷ luật trong quân đội Mông Cổ nghiêm khắc đến nỗi chàng rể của đại hãn tức khắc tuân hành không dám thốt một lời nào, và ít lâu sau, Tô Gu Sa chết trong một cuộc hãm thành như những chiến sĩ xung phong khác.
Hùm thiêng khi đã sa cơ...
Quốc vương Mohammed chạy xuống thành Balk ở trong một vùng núi non thuộc A Phú Hãn. Bỗng có tin hãi hùng đưa tới: ba binh đoàn Mông Cổ ồ ạt qua sông Amou-Daria tiến xuống miền Nam. Họ không tàn sát, không cướp đoạt, chỉ bắt buộc dân chúng cung cấp lương thảo cho binh mã rồi đi lùng kiếm riêng có quốc vương mà thôi.
Ngoài một ít vệ binh Mohammed không còn một đoàn quân nào dưới tay, lại không thể trông cậy vào quân A Phú Hãn vì xứ nầy mới bình định, sáp nhập vào đế quốc chưa bao lâu. Ông vội vã chạy về miền Tây, tới tỉnh Khoressan, một tỉnh đông đúc với nhiều thành thị phồn thịnh, trước kia thuộc quyền thống trị của cha ông. Trên con đường bôn tẩu, gặp làng mạc thị trấn nào không có quân đội bảo vệ, ông ra lịnh cho dân chúng gấp rút tản cư; nơi nào có thành trì kiên cố thì kêu gọi quân trú đóng phải cố chống giữ đến giọt máu cuối cùng.
Những mệnh lệnh ông đều nằm trong một chiến thuật đã được tính toán kỹ càng. Chính Koutousov 600 năm sau đã áp dụng chiến thuật này để chiến thắng Nã Phá Luân: tản cư dân chúng để tuyệt nguồn tiếp tế lương thực của địch và nguồn nhân lực dùng vào việc công hãm thành: thành nào có phòng vệ phải chống cự quyết liệt để ngăn chặn bước tiến của họ, ông mới có đủ thời giờ chấn chỉnh lại quân mã...
Nhưng Mohammed thất bại hoàn toàn vì không lường được lối hành binh thần tốc của địch, nguy hại nhất là bị địch ly gián ông với dân chúng. Tại Merv, "một thành phố hoa hồng", ông nghe tin quân Mông Cổ chiếm kinh đô sau 5 ngày vây hãm.
Đạo binh thủ thành Samarkande cố phá một đường máu thoát ra nhưng bị sát hại quá nhiều đành phải thối trở vào. Qua hôm sau quân Mông Cổ án ngữ sát cửa thành không còn cách nào ra nữa. Rồi cái cảnh ở Boukhara tái diễn: bọn quan lại, giáo chủ, thầy tu đòi mở cửa xin qui hàng. Họ phát động một cuộc tuyên truyền trong dân chúng "Samarkande là một hãn địa độc lập: 7 năm trước đây Mohammed đã đuổi Osman, khả hãn của họ, ra khỏi thành lại còn tìm cách ám sát. Ở Tây liêu, Thành Cát Tư Hãn cho mở cửa đền thờ và che chở tín đồ Hồi giáo..." Cuộc nổi loạn bùng nổ; 30 ngàn quân Thổ xin đầu hàng, còn lại bao nhiêu thì rút vào nội thành cố thủ. Bốn cửa ngoại thành đều mở rộng đón quân Mông Cổ (tháng 3-1220).
Ngay hôm đó quân Mông Cổ triệt hạ tường thành, lấp bằng các chiến hào. Phái Hồi giáo gồm 50,000 gia đình được để yên, kỳ dư tất cả dân chúng đều bị lùa ra một cánh đồng rộng. Họ lọc ra 30 ngàn nghệ sĩ và thợ giỏi gởi cho các binh đoàn sử dụng, một số thanh niên khoẻ mạnh thì dùng làm phu dịch hoặc cho gia nhập quân đội viễn chinh, số còn lại đem chém phăng cả. Ba mươi ngàn quân Thổ và tướng lãnh đầu hàng cũng chịu chung một số phận vì người Mông Cổ không bao giờ dung thứ kẻ phản bạn đồng ngũ. Vài hôm sau họ chiếm nội thành và đốt ra tro bụi...
Tới lúc này quốc vương mới nhận thấy cái hiểm họa: tín đồ Hồi giáo sẵn sàng qui hàng giặc; hai người bạn thân của ông lại ra làm thống đốc dưới sự kiểm soát của một tướng Mông Cổ; dân chúng thành Merv rục rịch bắt ông đem nạp cho địch quân. Mohammed tức tốc trốn ra khỏi thành Merv, vượt một rặng núi xuống thành Nichapour. Tại đây ông viết một bức thơ gởi cho bà thái hậu đang ở Gourgandi, thủ phủ của chính quốc Kharesm (cận cửa sông Amou-Daria, gần biển hồ Aral) kêu gọi bà mẹ cấp tốc dẫn đám cháu và đám cung tần chạy xuống Khoressan. Vì chiếm được Samarkande rồi thì Kharesm sẽ là mục tiêu thứ nhì của Thành Cát Tư Hãn.
Trong lúc ấy Tốc Bất Đài và Triết Biệt đã tới Balk; họ không gặp một sức kháng cự nào: dân chúng mở cửa thành đón hai binh đoàn Mông Cổ và cho biết quốc vương đã chạy về miền Tây.
Cuộc săn đuổi tiếp tục ráo riết, luôn mấy tuần binh Mông Cổ không gặp một chút trở ngại; nhiều khoảng họ phi 120 cây số mỗi ngày đến ngựa dự phòng cũng kiệt lực. Họ đuổi say sưa y như một bầy chó săn đuổi theo dấu con mồi. Thành Herat, thành Merv đều bỏ ngõ, dân chúng đem thực phẩm đến dâng cho binh sĩ, đem cỏ nuôi ngựa. Quân Mông Cổ không đụng đến tơ hào của dân và giữ lại bọn cầm quyền cũ. Những làng nào, thị trấn nào chống lại, họ tận sát, hủy diệt không chút xót thương. Gặp thành kiên cố liệu phải mất nhiều ngày công hãm, họ vòng ngõ khác bỏ lại phía sau. Riêng có thành Zavch, dân chúng lại lên mặt thành đánh trống, chửi rủa binh Mông Cổ. Tốc Bất Đài liền quay trở lại trong 3 ngày, giết không còn một bóng người rồi đốt trụi, lúc họ lên đường thì chỉ còn một đống tro tàn.
Bây giờ khắp xứ Khoressan đâu đâu cũng có cuộc xung đột giữa dân chúng chủ hàng và quân trú phòng Thổ vẫn còn trung thành với quốc vương. Quả nhiên, Thành Cát Tư Hãn đã đạt được mục đích của mình.
Mohammed hết dám trông cậy vào tường cao hào sâu nữa, liền mượn cớ đi săn để trốn ra khỏi Nichapour, chạy mãi về miền Tây. Khốn hơn nữa là ông cũng không dám tin đám vệ binh của mình, hằng đêm phải bí mật sang ngủ ở một cái lều khác; có một sáng thấy cái lều chính thức bị tên xuyên thủng lỗ chỗ khắp trên nóc. Từ đó tình cảnh của ông chẳng khác con thú bị bủa vây khắp ngả, lúc nào cũng sống trong nỗi lo âu hãi hùng, còn đâu can đảm, sức lực để chiến đấu nữa. Còn chăng là một ít kẻ trung tín với niềm hi vọng cuối cùng: chạy thật nhanh để bảo toàn tính mạng. Ông chạy mãi về phương Tây, qua núi non, qua sa mạc, qua Irak Persan, Irak Adchémi cho đến tận biên cảnh Mesopotamie mới dừng lại... nhưng không hiểu sao ông lại quay về đường cũ đến ẩn náu tại thành Rai.
Tốc Bất Đài và Triết Biệt cũng không lúc nào để lạc dấu kẻ thù. Tới Nichapour hay tin Mohammed mới đào tẩu, họ thúc dân chúng cung cấp thức ăn và rơm cỏ cho ngựa rồi cảnh cáo: "Nếu các ngươi muốn cho nhà cửa, tài sản còn trọn vẹn thì đừng ỷ vào thành cao hào sâu và bọn quân trú phòng. Hãy thành thật qui thuận và triệt để tuân theo mạng lịnh của những binh đoàn Mông Cổ tới đây."
Rồi họ hấp tấp lên đường; trong cuộc rong ruổi họ bắt được thái hậu và đám cung tần ẩn náu trong một tòa lâu đài; ở một nơi khác họ khám phá được kho vàng của quốc vương. Tù nhân và của báu đều áp giải về Samarkande. Thành Cát Tư Hãn vẫn đóng ở đây, bình thản chờ đợi kết quả cuộc săn người cách ông những 3000 cây số.
Tại thành Rai - một hoàng thành cổ - quốc vương qui tụ được 3000 tân binh dưới bóng cờ và sẵn sàng giao chiến với quân Mông Cổ. Nhưng kết quả thật thảm hại: hoàng quân bị đánh tan tành không còn manh giáp. Dân trong thành lại chia làm hai phe: phe chủ hàng áp đảo được phe chủ chiến và chặt đầu gần trọn phe sau. Lúc Tốc Bất Đài vào thành thì quang cảnh y như lò sát sinh.
Làm thế nào tin được cái lũ người giết đồng bào của mình để cầu mạng sống? Đại tướng Mông Cổ liền ra lịnh giết sạch phe qui hàng không chừa một người nào rồi phóng hoả đốt thành Rai, biến thành một đống tro nghi ngút khói.
Nhưng qua khỏi thành Hamadan quân Mông Cổ lạc dấu Mohammed. Họ liền chia thành từng toán nhỏ tẻ ra khắp các hướng lùng kiếm. Một toán quân tình cờ bắt gặp một đám kỵ sĩ đang tìm đường lẩn tránh. Họ tức tốc đuổi theo và nhắm hạ một người trong bọn ngồi trên con tuấn mã, nhưng ngựa của hắn phi như gió cuốn, theo không kịp nữa. Người kỵ sĩ đó chính là Mohammed đang chạy ra bờ biển Caspienne. Lúc Tốc Bất Đài đến bờ biển thì chỉ còn thấy một cánh buồm trắng mang quốc vương tiến thẳng ra khơi.
Ít lâu sau, Ala-ed-Din Mohammed chết trên một hòn đảo cô tịch ở giữa biển. Có ai ngờ một nhà chinh phục lừng lẫy, một bậc đế vương hùng mạnh nhất thời bấy giờ lại lâm vào cảnh mạt lộ bi thảm như vậy. Cơ đồ tan nát, sống những chuỗi ngày cơ hàn tuyệt vọng, lúc chôn xuống huyệt chỉ còn cái thân xác với bộ y phục rách tả tơi (tháng 12-1220).
Tốc Bất Đài không hay biết gì về cái kết cuộc thê thảm của Mohammed. Đại tướng gởi một mã khoái tên bay về tâu với đại hãn rằng Mohammed đã dong thuyền trốn lên phương Bắc và xin lệnh án binh ở vùng đồng bằng miền Nam Caspienne cho binh mã nghỉ ngơi trong lúc đông về.
Chương XVI
CUỘC SĂN DÃ THÚ Ở XỨ HỒI
Mùa hạ năm 1220, quân Mông Cổ hạ trại ở khoảng giữa Samarkande và Boukhara; họ đóng rải rác trong những khu rừng thưa, những vườn mận vườn đào, trong một vùng rộng ngang dọc hàng chục cây số.
Họ ráo riết huấn luyện đám thanh niên Thổ và Ba tư để đem thí mạng trong những đợt công thành. Các tay thợ Hồi giáo nổi danh đều bị trưng dụng vào việc canh tân các loại khí giới như máy bắn tên, bắn đá, phóng hỏa, xe húc cửa thành. Oa Khoát Đài được phong tư lịnh pháo binh điều khiển mọi việc chế tạo, trang bị. Hầu hết những biệt thự lộng lẫy ở chung quanh Samarkande đều trở thành những đống gạch vụn vì làm bia thí nghiệm.
Nhưng có làm gì đi nữa, đại hãn cũng cho rằng thời kỳ án binh bất động này thật bất lợi cho quân đội. Binh sĩ bắt đầu xa rời đời sống kham khổ, giản dị của dân du mục, chìm đắm trong cuộc sống xa hoa, kiểu cách. Truật Xích lập một biệt điện vương giả có đoàn ca vũ nhạc; Oa Khoát Đài và Đà Lôi say sưa suốt ngày với thứ rượu nho tuyệt hảo. Họ bất chấp một điều khoản trong luật Yassa "mỗi tháng chỉ được say nhiều nhất là ba lần; ai say hai lần là người tốt, một lần thì đáng khen ngợi, không lần nào là người ưu tú..."
Cho nên đại hãn lấy làm lo ngại cho binh sĩ cứ miệt mài trong những lạc thú mới. Ông than phiền với quân sư Chu Thai: "Bọn con cháu chúng ta sau nầy sẽ mặc áo kim tuyến, ăn món ngon vật lạ, cỡi ngựa đẹp và vui vầy với gái mỹ miều nhưng chúng nó đâu có biết cha và anh của chúng đã tạo nên đời sống ấy bằng những ngày gian khổ như thế này."
Trong thời gian nầy Thành Cát Tư Hãn cho gọi những thầy cả, những nhà "thông thái" Hồi giáo đến giảng cho ông nghe luật của đấng Tiên tri. Ông chỉ chấp nhận một vài điểm trong kinh Coran mà thôi. Có lần ông nói: "Việc hành hương ở La Mecque thật vô ý nghĩa. Trên mặt đất nầy ở đâu chẳng có Trời, cần gì phải đến một địa điểm nhất định để tỏ lòng tôn kính!" Sự phân biệt con vật tinh khiết và con vật dơ bẩn cũng bị ông bác bỏ: "Muôn loài đều do Trời tạo ra, con người có thể ăn bất cứ thứ gì mình muốn." Về vấn đề loại trừ và ngược đãi những kẻ không theo luật của đấng Tiên tri, ông ra một quyết định như sau:
"Các ngươi có thể tin theo Đấng nào cũng được, nhưng không thể ngược đãi hoặc giết một kẻ nào nếu chưa có lịnh của ta. Trong đế quốc của ta ai cũng có quyền tin tưởng nơi Thượng đế của họ; nhưng phải tuân theo luật của Thành Cát Tư Hãn ban hành."
Lời tuyên bố trên đưa đến một kết quả là các giáo phái hoạt động sôi nổi hơn lúc nào hết: phái Cảnh giáo trương chữ thập lên nóc nhà thờ; phái Hỏa giáo khơi lại ngọn lửa thiêng trong đền; người Do thái tổ chức lại giáo hội...
Ai cũng thấy tín ngưỡng được bảo đảm, cuộc sinh hoạt trở lại bình thường. Miền lưu vực giữa hai con sông Syr và Amou- Daria từng chịu đựng cơn sấm sét thị uy của Thành Cát Tư Hãn giờ bắt đầu hàn gắn lại những dấu vết điêu tàn.
Tin cấp báo của Tốc Bất Đài về việc Mohammed thoát lên miền Bắc chấm dứt thời kỳ nhàn hạ của các binh đoàn Mông Cổ. Lên phương Bắc tức là Mohammed trở về xứ sở của ông ta ở vùng duyên hải biển Aral. Thành Cát Tư Hãn tức tốc mở một chiến dịch mới. Truật Xích và Sát Hợp Đài mỗi người thống lĩnh một binh đoàn lên chính quốc Kharesm.
Một xứ bé nhỏ mà có lực lượng chinh phục được một đế quốc rộng mênh mông như vậy thì không thể khinh thường được, cuộc chiến đấu chắc chắn sẽ gay go, nên đại hãn phải dự liệu thật xa: đoàn pháo binh phải mang theo tất cả những loại máy công thành tối tân.
Muốn biết chắc chắn hiệu lực của những cái máy nầy, đại hãn đích thân tới cửa thành Termeds (lúc đó chưa chiếm) trên thượng lưu sông Amou-Daria cho đem máy ra thử. Từng tảng đá nặng hàng trăm cân bay vun vút tới đập rã rời các vách thành; bình chứa dầu thạch não nối tiếp nhau bay vào thành rơi xuống các nóc nhà, vỡ ra và bốc lửa lên, chẳng bao lâu cả thành dấy lên một biển lửa rực trời.
Nhờ kết quả rực rỡ, Oa Khoát Đài được tha tội chè chén say sưa và được phái đi trợ lực cho hai người anh. Bác Nhĩ Truật được làm chủ tướng thống lĩnh tất cả các binh đoàn, kiêm việc báo cáo mật cho đại hãn biết mọi sự xảy ra, đây là lần thứ nhất đại hãn sắp xếp cho ba người con hoạt động chung ở một mặt trận thử coi họ hành động như thế nào, đối xử với nhau ra sao...
Đại hãn với Đà Lôi theo dõi chiến cuộc và sẵn sàng để tiếp viện cho ba mặt trận Bắc, Tây và Nam. Để tránh cái nhàn rỗi làm nhụt nhuệ khí chiến đấu của ba quân, đại hãn tổ chức một cuộc săn lưới ở giữa đất địch trong vùng núi Termeds. Đây cũng là một lối tập trận thường lệ của binh Mông Cổ trong lúc nghỉ sau những chiến dịch hành quân.
Lần thứ nhất trong đời, dân Hồi giáo được chứng kiến một lối săn đại qui mô và các sử gia của họ đã tả lại bằng một giọng ngạc nhiên:
"Nhiều sĩ quan tham mưu len lỏi trong rừng để phân định khu vực săn đuổi (Nerkeh) và chỉ định địa điểm bắn thú (Gherkeh). Binh sĩ kéo tới bao vây trọn khu vực, có khi tới hai vòng. Họ vừa tiến tới vừa đánh trống, đánh thanh la, não bạt rền vang bốn phía. Không có con thú nào có thể lọt ra khỏi vòng vây; họ lục lọi, tìm kiếm không sót một chỗ nào từ cái đầm, cái vũng đến hang động, lùm bụi. Sau lưng là bọn sĩ quan cỡi ngựa đi kiểm soát từng hoạt động, từng bước đi của họ. Vô phúc cho toán nào để một con thú thoát ra ngoài vòng, hoặc bỏ sót một cái hang gấu, hang cọp. Chỗ nào đã trẩy qua chỗ đó phải hoàn toàn không còn hình bóng một con vật.
Họ đem theo tất cả quân trang nhưng không được sử dụng tới vũ khí. Nếu có một con gấu, con cọp hoặc một bầy chó sói, một bầy heo rừng toan phá vòng vây, họ chỉ giăng lưới gai ra lùa chúng tới; nhất là các loại thú dữ, không được để sẩy một con nào hoặc làm cho chúng bị thương.
Lúc đầu loài thú hoảng sợ chạy nhốn nháo, con thì trèo lên triền, con thì chạy xuống núi, con thì chui vô hang, con thì phóng qua vực, nhưng rốt cuộc cũng phải chạy dồn về một hướng. Trong khi đó bọn lính cũng trèo đèo, vượt suối, lên thác xuống ghềnh, không lúc nào bỏ mục tiêu của họ. Đêm tới họ đốt một vòng lửa chung quanh khu vực đã thu hẹp lại, bên ngoài có tới bốn năm vòng vây, càng hẹp vòng càng dầy càng chặt. Các loại thú dữ lúng túng trong vòng càng lồng lộn táo bạo. Chúng điên tiết lên vồ những con nai, con mang chạy loạn xạ, hoặc cấu xé lẫn nhau. Nhưng vòng vây cứ siết lần, trong một thời gian mấy tháng như vậy. Đại hãn thân tới quan sát tỉ mỉ những góc gay go nhất xem bọn chiến sĩ đã áp dụng chiến thuật bao vây như thế nào.
Sau cùng "quần hùng" đủ loại trong một vùng rừng mênh mông đều tụ hội ở một địa điểm (Gherkeh). Cái vòng vây tử thần bây giờ đã thành một thứ tường đồng vách sắt không sức nào phá nổi.
Thình lình ở một chặng, bọn binh sĩ nép ra hai bên thành một lối đi, đồng thời một giàn nhạc trỗi lên một điệu ầm ĩ, sấm động khiến cho những con dã thú hung bạo nhất cũng hãi hùng khiếp đảm. Đại hãn ngồi trên con tuấn mã đi đầu tiếp theo là đám thân vương, cận tướng tiến vào trong vòng. Theo tục lệ, đại hãn chỉ mang một cây trường kiếm và một cây cung rồi chính tay hạ một con hổ, một con gấu và một con heo rừng để mở màn cuộc săn. Xong rồi ông lên đỉnh một ngọn đồi ngồi trên ghế bành xem bọn tùy tùng trổ tài thiện xạ. Họ hạ mãnh thú trước rồi mới lần lượt tới các loại thú khác ít hào hứng hơn. Thỉnh thoảng họ bị một con ác thú núp trong bụi bất ngờ lao ra... Lúc đó mới thấy được ai là kẻ đại đởm, nhanh nhẹn, lanh trí... Có những màn hồi hộp như thế đại hãn mới thấy hứng thú và sẵn sàng ban cho một phần thưởng xứng đáng. Khi mãnh thú bị giết sạch rồi, đám cháu của đại hãn xin tha cho những con thú yếu ớt hoặc còn bé. Một hiệu lịnh truyền xuống chấm dứt cuộc săn, vòng vây liền tháo mở trả tự do cho những con thú còn lại."
Cuộc săn ở Termeds kéo dài suốt bốn tháng. Trong bốn tháng ấy một trăm ngàn binh Mông Cổ giẫm lên khắp chốn núi rừng say sưa đuổi theo con mồi, chừng như họ đang sống trong cảnh thái bình vô sự. Nhưng chính lúc ấy kẻ thù rục rịch dấy lên ở khắp bốn phương.
Chương XVII
CHIẾN TRANH HỦY DIỆT
Trước lúc chết Mohammed lập hoàng tử Djélal-Ed-Din lên kế vị. Ông này là người cương quyết, can trường lại được cảm tình của dân chúng, liền trở về Kharesm bắt tay vào cuộc chiến đấu chống quân Mông-cổ.
Nhưng bọn tướng lĩnh lại ủng hộ U-Xơ-Lắc (Ouslag), một hoàng tử nhu nhược, vì với ông này họ tự do thao túng được. Họ âm mưu với nhau để giết Djélal, khiến ông ta phải dẫn đám quân trung thành chạy xuống Khoressan. Nửa đường gặp đạo binh Mông-cổ đang kéo đi diệt trừ ông, Djélal liền giao chiến gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Sau trận này đột nhiên không ai biết tông tích ông ta nữa, nhưng khắp bốn phương người ta không ngớt bàn tán về trận đại thắng Mông cổ, về những đạo binh kháng chiến hùng hậu mới thành lập...
U-Xơ-Lắc và bọn hoàng thân hễ nghe binh Mông-cổ tới là chạy trốn như chuột và sau rốt họ đều bị giặc giết.
Binh Mông-cổ tiến xuống vùng hạ lưu sông Amou-Daria thế như sóng tràn, họ cướp phá tiêu điều những làng mạc, những thị trấn ở dọc theo bờ sông và chiếm lần lượt các đô thị phồn thịnh.
Nhưng đến Gourgandj (bây giờ là Ourgendj, gần Khiva) một đô thị lớn, quân Mông-cổ phải một phen lao đao vì gặp sức kháng cự mãnh liệt. Vùng phụ cận thành này toàn là đồng lầy, không tìm đâu ra được một tảng đá, những máy công thành đều hóa ra vô dụng. Binh Mông-cổ phải đốn cây ở chung quanh cưa khúc ra rồi dầm nước cho nặng thay thế đá, nhưng rốt cuộc vẫn không hiệu quả. Họ đành liều lĩnh trèo lên mặt thành nhưng bị đẩy lui ra, nhiều đợt thiệt hại rất nặng nề.
Trong lúc đó Truật-Xích và Sát-Hợp-Đài lại xung đột với nhau gay gắt. Truật-Xích cho rằng thành Gourgandj thuộc vùng thống trị của mình phải do mình chỉ huy; Sát-Hợp-Đài lại bảo trọn miền này cho chí biển Aral là thuộc quyền của vương tử theo như phụ vương đã hứa, cho nên vương tử cứ ra lệnh ngược trở lại...
Nghe qua báo cáo mật Thành-Cát-Tư-Hãn giận tím mặt, tức tốc sai hai tên mã khoái “Tên bay” phi ra mặt trận truyền lệnh cho hai vương tử: phải trao quyền chỉ huy lại cho Oa-Khoát-Đài.
Đệ tam vương tử xử sự thật khéo léo, lúc khuyên nhủ người này, lúc khuyên nhủ người kia, tìm cách hòa giải giữa hai người, nhờ vậy việc chỉ huy mới nhất trí trở lại…
Một tên mã khoái khác phi ra biển Caspienne gọi Tốc-Bất-Đài về. Trong lúc hai vương tử lo tranh chấp đất đai và các tướng lĩnh đang say sưa trong giấc mộng chiến thắng, riêng Thành-Cát-Tư-Hãn rất lo âu về tình hình biến chuyển nguy ngập, quân viễn chinh gồm 250.000 người đã phân tán khắp nơi, 30 ngàn đánh ở miền Tây, 50 ngàn đánh ở miền Bắc. Đột nhiên chúa Thổ- phồn và khả hãn Almaltk muốn rút 70 ngàn quân của họ về nước. Đại-hãn đã chấp thuận vì đám quân này thiếu tinh thần chiến đấu lại không thể tin cậy. Kế đó là cuộc tấn công thành Gourgandj thất bại, quân số hao bớt quá nhiều. Đại quân Mông-cổ hiện chỉ còn 100.000 người ở giữa lòng một đế quốc rộng lớn bao la không biết đâu là biên giới. Trong hai năm qua từ khi Truật-Xích và Triết-Biệt đổ xuống thung lũng Đại uyển, quân Mông-cổ đã đảo lộn thế giới Hồi giáo bằng một chuỗi chiến thắng, nhưng thật sự họ vẫn chưa chiếm được miền Transoxiane, miền cực Tây của đế quốc Kharesm. Chỉ có Oa-Khoát-Đài hiện đang tìm cách trấn áp miền Bắc, là chính quốc Kharesm; còn ở miền Nam xứ A-phú-hãn, núi non trùng điệp, người dân nói chung chưa ai thấy bóng dáng một kỵ binh Mông-cổ. Xứ Khoressan thì chỉ thấy người Mông-cổ trẩy ngang qua lúc đuổi theo Mohammed. Phần lớn những đô thị có đông dân Ba-tư đều đã quy hàng, tuân lệnh những tổng trấn do người Mông-cổ đặt lên, nhưng chẳng biết họ có thành thật không; hay chỉ là một quỷ kế để khỏi bị giết chóc cướp đoạt, rồi chờ cơ hội thuận tiện sẽ trỗi dậy! Giờ đây Djélal lại công khai kêu gọi kháng chiến là triệu chứng của một cuộc phản loạn toàn quốc. Họ có thể quy tụ hàng triệu chiến sĩ phản công lại thì làm thế nào? Một cuộc thảm bại sẽ làm sụp đổ 20 năm danh vọng chiến thắng của ông và hủy diệt luôn đế quốc Mông-cổ. Sự thực thì Mông-cổ không có một tiềm lực chiến tranh hùng hậu, cũng không có một nước đồng minh nào liên kết lâu dài. Toàn bộ lực lượng chiến đấu đều mang đến xứ này, nếu bị tiêu diệt thì chắc chắn các bộ lạc, các dân tộc sẽ dấy lên khắp nơi trong đế quốc.
Đại hãn nóng lòng chờ đợi viên cận tướng về để hỏi cho biết rõ khả năng chiến tranh của đối phương, vì khi đuổi theo Mohammed, Tốc-Bất-Đài đã rong ruổi gần khắp đế quốc Kharesm.
Được lệnh, Tốc-Bất-Đài liền lên ngựa phi bất kể đêm ngày. Mỗi khoảng năm hay sáu chục dặm, đại tướng dừng lại ở một cái trạm đổi lấy ngựa khỏe đã sẵn yên cương, rồi hấp tấp lên đường. Suốt một tuần ngựa phi ngày đêm qua hơn 2.000 dặm mới tới Đại bản doanh.
Viên đại tướng liền trình bày mọi khía cạnh về địa lý: trước hết là xứ Khoressan giầu có, nhiều thành lũy kiên cố, nhiều đô thị vĩ đại có tường cao, hào sâu bao bọc; xứ này giăng dài từ Herát đến Merv và từ Merv đến Nichapour. Đi tới nữa là miền đồng cỏ nước mặn, hoang vắng gần như không thể vượt qua được; rồi tới một đường hẻm ở giữa hai dãy núi trọc, ngựa phi trong nhiều ngày mới ra tới một vùng sầm uất, dân cư đông đảo, đó là Irak Persan, Irak Adchemi…
Đại Hãn hỏi:
- Binh Hồi giáo phải mất bao nhiêu ngày mới có thể tới Khoressan?
Tốc-Bất-Đài đáp:
- Mùa hạ họ không thể tới đó được vì nắng đốt cháy rụi đồng cỏ và rút cạn hết nước sông. Qua mùa đông thì ngựa xứ Hồi đâu biết cào tuyết lên tìm thức ăn. Vậy chỉ có mùa xuân và mùa thu họ mới trẩy quân được mà phải lùa súc vật theo thật nhiều và mang đầy đủ hành trang. Nhưng ở Irak Adchemi không thấy một đạo quân nào có đủ điều kiện như thế…
Báo cáo của Tốc-Bất-Đài đã giúp cho đại hãn quyết định một chiến lược mới. Như vậy thì hai mặt Đông và Tây của đế quốc Kharesm không thể trợ giúp nhau được, và Tốc-Bất-Đài cũng không thấy có triệu chứng đóng binh ở phía Tây, điều đó cho biết Djélal đang ở đâu đó về phía Đông; nếu có khởi loạn thì chỉ có thể ở A-phú-hãn và Khoressan. Những xứ này dù có quân lực hùng hậu thế nào đi nữa cũng không đáng ngại vì họ còn ở trong tầm 1.000 c.s, mà với quân Mông-cổ 1.000 c.s chẳng là bao, có thể kịp thời đối phó và tiếp viện cho nhau.
Như thế con số 100.000 quân dưới tay đại hãn và 30.000 dưới quyền Tốc-Bất-Đài, Triết-Biệt không phải là con số quá ít...
Hậu quả của quyết định trên là dân Nga phải mang cái ách thống trị nặng nề hàng mấy thế kỷ, Đông-Nam Âu-châu bị tàn phá khủng khiếp và khắp Tây phương đều sống trong nỗi lo âu hãi hùng.
Suốt mùa đông Tốc-Bất-Đài án binh ở miền Tây để dòm dỏ chung quanh và thỉnh thoảng mở một cuộc hành binh thám thính ở Azerbeidjan, Kirdistan, Géorgie.
Bên kia biển Caspienne là những dẫy núi cao chọc trời, vượt qua bức tường đá ấy thì tới xứ của giống người “tóc vàng mắt xanh”. Những xứ này lại tiếp giáp với hãn địa của Truật-Xích cho nên cần phải biết rõ họ. Đại hãn cho Tốc-Bất-Đài vượt qua dẫy núi cao để tìm hiểu coi dân tộc bên kia là dân tộc nào, quân đội của họ ra sao… Thời hạn hoàn thành công tác đó là ba năm, xong rồi trở về Mông-cổ bằng con đường phía Bắc biển Caspienne.
Quả lúc đó Djélal đang ở phía Tây (Đông?) đế quốc Kharesm trong một vùng núi non hiểm trở của A-phú-hãn và đang chiêu binh mãi mã để chống lại Mông-cổ. Đúng như Thành-Cát-Tư-Hãn đã tiên liệu, cuộc vùng dậy bùng nổ ở khắp nơi trong đế quốc.
Lâu nay những tù trưởng, giáo chủ, thầy cả không thích xen vào các cuộc tranh chấp của bọn cầm quyền, hễ ai chiến thắng thì họ theo người đó. Dưới chế độ của Mohammed họ đều ngất ngư trong cảnh lầm than nên lúc đầu sẵn sàng quy phục Mông-cổ. Nhưng từ khi đại hãn cho tự do tín ngưỡng, phe Hồi giáo hết sức bất mãn vì điều đó chạm vào cuồng tín của họ, lại thêm sự cướp bóc, tàn sát quá khủng khiếp của binh Mông-cổ, đâu đâu máu căm thù cũng sôi lên sùng sục. Cho nên khi nghe một vị quốc vương trẻ tuổi và hùng lược hô hào một cuộc thánh chiến, họ rùng rùng chạy theo, toàn khối Hồi giáo nổi dậy chiến đấu.
Tin ở khắp nơi đưa về dồn dập. Bọn tổng trấn và quan lại của người Mông-cổ đưa lên lần lượt bị ám sát, bọn thân binh bị đột kích, những đồn lẻ tẻ bị tấn công, nhiều cuộc nổi loạn ở các đô thị…
Đà-Lôi liền thống lĩnh một nửa đại quân trẩy đi Khoressan, không phải để tảo trừ quân phiến loạn, không phải để bình định những vùng quật khởi, mà để thi hành một nghiêm lệnh của đại hãn: HỦY DIỆT TẤT CẢ!
Cuộc ác chiến diễn ra khốc liệt chưa từng có: một bên là 100.000 quân Mông-cổ thiện chiến, vũ trang cực kỳ chu đáo, quen kỷ luật thép; một bên là một biển người hỗn tạp thiếu kỷ luật, tuy không phối hợp được chặt chẽ nhưng cuồng nhiệt, táo bạo và tàn nhẫn không kém; một cuộc chiến đấu để sống còn hoặc bị tiêu diệt nên không bên nào nương tay, không bên nào ngán cảnh núi thây sông máu.
Binh đoàn Đà-Lôi lần lượt chiếm lại những chỗ đã mất. Lần này họ không tổ chức thân binh bỏ lại trấn giữ vì chỗ nào họ đã đi qua thì phía sau chỉ còn gạch vụn tro tàn, không tìm đâu ra một bóng sinh vật. Nhiều đô thị có từ 70 đến 100.000 dân không còn “một con mèo hoặc con chó sống sót”. Bọn nghệ sỹ, thợ giỏi và phụ nữ bị cột xâu lại giải về Đại bản doanh. Trai tráng còn cầm được khí giới bị lùa đi đầu làm bia đỡ tên cho binh Mông-cổ hãm thành, nếu thoái lui thì bị họ bắn tức khắc.
Chủ trương “hủy diệt tất cả” của Mông-cổ đã bẻ gẫy cuộc kháng chiến của dân Hồi giáo.
Thành Merv chiến đấu tuyệt vọng trong 3 tuần (cuối tháng 2-1221). Đà-Lôi ngồi trên một cái ghế khảm vàng chứng kiến cuộc chặt đầu toàn thể dân chúng. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, sắp riêng biệt giao cho từng tiểu đoàn hành quyết. Chỉ có 400 người thợ được tha mạng. Lăng vua Sandjar bị thiêu hủy, mộ bia bị quật lên.
Thành Nichapour cầm cự được 3 ngày trước sức tấn công vũ bão. Đà-Lôi sử dụng 300 máy phóng đá, 3.000 máy phóng tên lửa, 700 máy phóng thạch não, 4.000 thang dây, và 2.500 bao cát lấp chiến hào. Vương tử chém phăng tất cả các đoàn đại biểu của dân chúng gửi tới xin quy hàng. Chính ở đây hồi tháng 11 năm ngoái phò mã Tô-Gu-Sa đã tử trận khi xung phong hãm thành, cho nên công chúa ngồi chứng kiến cuộc trảm thủ. Họ sắp đầu người thành những kim tự tháp, đàn ông, đàn bà, trẻ con riêng biệt. Chẳng phải người mà thôi, họ giết cả mèo và chó không sót một con nào. Xong rồi lại đập nát lăng tẩm của vua Hareun-Er-Rachid là công trình kiến trúc cực kỳ tráng lệ làm hãnh diện nền văn minh Ba-tư.
Chỉ một lần, chừng như đã mệt mỏi sau mấy tháng chém giết, Đà-Lôi tha chết cho dân chúng thành Hérat, thành cuối cùng của xứ Khoressan. Tất cả trong thành đều được để yên chỉ trừ 12 ngàn người đã chống đối phe quy hàng. Nhưng lúc Đà-Lôi về tới Đại bản doanh thì tin cũng vừa tới cho hay dân Hérat lại nổi loạn, giết chết viên tổng trấn. Thành-Cát-Tư-Hãn khiển trách nặng nề: “Cuộc nổi loạn do đâu mà ra mày có biết không? Lưỡi gươm của mày không còn hiệu nghiệm đối với dân Hérat nữa!”
Đại hãn liền sai một tướng khác dẫn một binh đoàn hỏa tốc đến Hérat thi hành lệnh sau đây: “Bọn đó là bọn chết rồi mà còn ngóc cổ dậy, ngươi phải làm cho đầu chúng nó lìa khỏi cổ cho ta”.
Lệnh nói trên được thi hành triệt để. Sau khi chiếm thành và giết sạch, viên tướng kéo quân trở về. Nhưng đi một đoạn đường ông ta sai 2.000 quân quay trở lại coi còn cái xác nào “ngóc cổ dậy” trong đống gạch vụn không. Họ bắt gặp giữa cảnh điêu tàn 3.000 người vừa từ dưới hầm hố chui lên, liền bao vây giết không còn một mống nào. Lúc họ rút về lần thứ 2 thì dưới những đống tàn vụn còn được 16 người sống sót; đám này lại gặp thêm 24 người nữa ở ngoại ô, tất cả là 40 người trong cái đô thị hết sức đông đúc, riêng quân trú phòng có đến 100.000 người.
Chủ trương hủy diệt toàn diện ấy được áp dụng triệt để ở khắp các mặt trận. Ở Kharesm, Oa-Khoát-Đài cho đào kênh tháo nước sông Daria ra ngõ khác cho dân thành Gourgandj chết khát nhưng không hiệu nghiệm, vì dân chúng có đủ thì giờ đào giếng. Vương tử đành xua quân hãm thành. Cả hai bên, bên công và bên thủ đều tử chiến với lòng căm thù tột độ. Có một trận quân Kharesm đánh bật quân Mông-cổ ra xa, bắt được 3.000 binh địch đem chặt đầu tới tên cuối cùng. Oa-Khoát-Đài cho hạ cây cối ở chung quanh đem lấp hào, đồng thời bắn thạch não vào thành lửa bốc cháy rực trời rồi thúc quân ồ ạt trèo vào thành. Quân Kharesm chống giữ từ đường phố, từ nhà. Cuộc hỗn chiến đẫm máu diễn ra liên tiếp 7 ngày trong khắp các ngõ đường chật hẹp. Sau cùng lực lượng kháng chiến bị đập tan.
Tất cả những người sống sót đều bị lùa ra cánh đồng, rồi như thường lệ, thợ giỏi, nghệ sỹ, phụ nữ được để riêng ra, còn bao nhiêu đều bị chặt đầu hết. Các sử gia ghi rằng mỗi người lính Mông-cổ phải chặt 24 người mới hoàn tất cuộc hủy diệt. Xong rồi họ gom hết bảo vật trong thành tải đi và nổi lửa đốt rụi nhà cửa còn lại. Chưa đủ họ khơi nước sông cho tràn vào thành mới có thể tận diệt được những người, những sinh vật còn chui rúc dưới hầm hố.
Bị khơi đào nhiều lần, điệu nước sông Amou-Daria thay đổi hẳn, cho tới ngày nay các nhà bác học còn bất đồng ý kiến nhau về hiện tượng: một nhánh sông không đổ ra biển Caspienne nữa và dòng Amou-Daria nay đã khô cạn, đùn lên dải Ousboj, một giải đất kỳ lạ dài hàng mấy trăm cây số. Chưa kể việc nước khô cạn đã biến trọn vùng bình nguyên giữa Caspienne và Aral thành sa mạc.
Trong lúc Oa-Khoát-Đài hủy diệt miền Bắc, Thành-Cát-Tư-Hãn đích thân chỉ huy cuộc càn quét ở miền núi Hindolu-Kouch. Ông chiếm Balk, Telekan, Kerdouane. Nhưng đến trận tấn công thành Baminan, Mô-Tu-Găng con của Sát-Hợp-Đài tử trận. Đại hãn nổi cơn sấm sét lôi đình trước cái chết của đứa cháu yêu quý. Ông ra lệnh phải triệt hạ lập tức thành này, giết tất cả người lẫn súc vật, tất cả những thứ gì có sự sống! Trọn một miền rộng lớn sinh hoạt đang phồn thịnh bỗng trở thành bình địa, cho đến mấy thế kỷ sau vẫn còn là sa mạc không có bóng người. Dân ở chung quanh gọi là Mobalig - có nghĩa là “chốn quỷ khóc thần kinh”.
Lúc đang phá hủy thành Baminan, bỗng Oa-Khoát-Đài và Sát-Hợp- Đài bỏ Kharesm về báo cho phụ vương hay, Truật-Xích hết sức bất bình việc bị đặt dưới quyền chỉ huy của hai người em và đã rút về hãn địa.
Thành-Cát-Tư-Hãn nhìn thẳng vào mặt Sát-Hợp-Đài quát lên:
-Ta đã phí bao nhiêu công lao để chinh phục các dân tộc, mở rộng đế quốc ra cho chúng bay mà chúng bay như thế ấy! Chúng bay chẳng biết gì hơn là bất tuân thượng lệnh và cãi vã nhau.
Sat-Hợp-Đài biết phụ vương đã quy lỗi về cho mình, liền quỳ xuống tạ tội và thề “thà chết chứ không dám cãi lệnh”. Đại hãn lặp lại hai lần một câu hỏi: “Mày có chịu tuân lệnh của tao không?”. Sát-Hợp-Đài phải hai lần thề xin tuân lệnh.
Đến lúc vào bàn ăn đại hãn mới nói: “Thằng Mô-Tu-Găng đã tử trận! Tao cấm mày khóc hoặc kêu than!”.
Sát-Hợp-Đài nghe như sét đánh bên tai nhưng không dám lộ một chút thay đổi sắc diện.
Bây giờ hầu hết những đô thị lớn trên đế quốc Kharesm đều trở thành cảnh điêu tàn hoang lạnh. Nhiều thành phố có cả triệu dân chỉ còn gạch vụn với cỏ dại. Không có nơi nào ở Mông-cổ cũng như là ở nước Kim quân đội Mông-cổ lại sát phạt với lòng thù hận đằng đằng như vậy. Từ biển Aral cho tới sa mạc Ba-tư ai còn sống sót cũng đều vỡ mật kinh hồn. Họ thì thầm với nhau gọi quân Mông-cổ là “Quỷ sứ ở địa ngục”. Thường khi chỉ một tên lính Mông-cổ cưỡi ngựa vào làng lôi hàng chục người ra chặt đầu rồi lùa hết súc vật trước mặt hàng ngàn người, ai cũng cúi đầu xuống không dám hó hé một lời.
Tới đây mới thấy Thành-Cát-Tư-Hãn tự vấn về cái lối chiến tranh của ông. Có lần ông hỏi một ông hoàng A-phú-hãn đang bị giữ làm tù binh:
- Theo ngươi, cảnh núi xương sông máu này có thể in mãi trong lòng người không?
- Nói sự thật ra chỉ sợ Ngài giết mất, nếu Ngài tha thứ cho tôi mới dám nói.
Rồi sau đó ông hoàng đáp:
- Đại hãn cứ cho giết nữa, giết mãi thì chắc chắn có còn ai đâu để mà nhớ cảnh gan óc lầy đất này!
Nghe viên thông ngôn dịch xong, đại hãn giận xanh mặt, liền bẻ gẫy mũi tên đang cầm trên tay; nhưng một lát sau ông lấy lại bình tĩnh và nói một cách khinh miệt:
- Mạng sống của con người đối với ta có nghĩa gì? Còn nhiều dân tộc khác, nhiều xứ khác nữa, danh vọng của ta sẽ tồn tại ở những nơi đó. Còn ở đây có giết sạch sanh bọn phản loạn Mohammed cũng chẳng thiệt gì…
Tàn sát khủng khiếp như vậy mà binh Mông-cổ vẫn chưa dập tắt được ngòi lửa kháng chiến. Ở Ghasni giữa vùng núi non hiểm trở của A-phú-hãn, Djélal đang nằm gai nếm mật mưu đồ cuộc phục quốc. Ông quy tụ tất cả những bộ lạc vùng sơn cước lại lo thao luyện đêm ngày…
Hay tin, Thành-Cát-Tư-Hãn liền sai Cô-Tô-Cô thống lĩnh 30 ngàn quân đi tảo trừ. Djélal chẳng chút sợ hãi xua quân ra giao chiến. Trong trận này Cô-Tô-Cô dùng một kế nghi binh: cho làm hình nộm bằng rơm khoác bên ngoài rồi đặt lên lưng ngựa cho địch lầm tưởng quân số đông đảo. Mưu kế này suýt chút nữa đã giúp tướng Mông-cổ thành công. Bọn tướng của Djélal đã hoảng sợ toan tháo lui nhưng vị quốc vương trẻ tuổi không chút hoang mang, thét quân tràn tới huyết chiến. Cô-Tô-Cô thất trận, binh Mông-cổ chạy tán loạn. Nghe tin cấp báo Thành-Cát-Tư-Hãn thản nhiên nói: “Cô-Tô-Cô chỉ quen chiến thắng. Cần có một lần thảm bại như thế cho hắn nếm mùi cay đắng như người ta!”
Rồi không để cho địch kịp loan tin chiến thắng ra, đại hãn khởi đại binh đem Oa-Khoát-Đài, Sát-Hợp-Đài, và Đà-Lôi theo ruỗi như gió cuốn qua suốt cõi đất A-phú-hãn không phút nào nghỉ. Đến Pirvan, chỗ Cô-Tô-Cô bị đánh bại, dù hết sức gấp rút, ông cũng dừng lại quan sát chiến địa rồi giảng giải cho viên tướng trẻ tuổi thấy lỗi lầm về chiến thuật của ông ta.
Djélal quả là tay dũng lược, một địch thủ xứng đáng của Thành-Cát-Tư-Hãn, nhưng tiếc thay ông ta chỉ biết thắng một trận mà không biết lợi dụng sự chiến thắng. Trong lúc đại binh Mông-cổ một ngày một tới gần, ông ta chỉ lo yến ẩm mừng cuộc khải hoàn và đem hành hạ bọn tù binh Mông-cổ: cho đóng đinh vào lỗ tai họ đến chết sạch. Rồi bọn thân vương theo ông lại lo giành nhau một con ngựa Arập cướp được ở mặt trận. Một người trong cơn tức giận đã lấy roi ngựa quất lên đầu người kia. Djélal lại đứng về phe kẻ bạo hành vì dưới tay người này có nhiều bộ lạc đang theo. Ông hoàng kia bất bình việc xử đoán không công bằng, nửa đêm khuya kéo binh ra đi. Nội bộ tan vỡ, Djélal cũng chỉ còn cách là đào tẩu.
Đại quân của Thành-Cát-Tư-Hãn tiến tới nhanh chóng và dữ dội như sóng tràn bão táp, không có một nơi nào dám kháng cự. Tất cả thành thị làng mạc đều răm rắp quy hàng, chẳng bao lâu quân Mông-cổ đã đuổi kịp Djélal ở bờ sông Indus. Đây là lần thứ nhất trong đời trận mạc, Thành-Cát-Tư-Hãn chiến đấu với kẻ địch bằng quân số trội hơn.
Nhưng trận này chỉ giúp cho Djélal viết đưọc một trang sử oai hùng. Cho tới ngày nay, kỷ niệm trận đánh này vẫn chưa phai mờ trong lòng dân A-phú-hãn. Họ quên mất Mohammed mà vẫn nhớ rõ ông hoàng trẻ tuổi anh dũng của họ đã làm cho vị Chúa chiến thắng phải nể mặt.
Trước khi mở màn trận đánh, đại hãn đã ra lệnh bắt sống Djélal. Vì cầm tù được ông ta thì cuộc kháng chiến của dân Hồi sẽ tan rã, cuộc bình định đế quốc Kharesm kể như đã hoàn tất.
Nhưng Djélal đâu phải là hạng người để cho địch quân tóm được dễ dàng. Bị một vòng vây trùng điệp mà Djélal vẫn không chút nao núng: ông dẫn đầu 700 quân vệ lăn xả vào quân Mông-cổ chém giết tơi bời, đoạt lấy cây đại kỳ đã bị địch cướp rồi quay trở lại mở một huyết lộ ra khỏi trùng vây chạy đến bờ sông Indus, vẫn ngồi trên con chiến mã từ trên vách núi cao 7 thước lao xuống dòng sông lội qua bờ bên kia, tay vẫn nắm chặt cây đại kỳ.
Đại hãn đứng quan sát mặt trận lấy làm kinh ngạc trước những hành động hùng dũng phi thường của vị quốc vương, phải buột miệng khen: “Hổ phụ sinh hổ tử”.
Đại hãn không cho bắn theo, bảo các vương tử hãy xem đó là một tấm gương tuyệt vời về lòng can đảm và tài ứng biến.
Tuy thầm phục như vậy, Thành-Cát-Tư-Hãn vẫn sai một đạo binh vượt qua sông Indus đuổi theo Djélal. Đạo binh nầy chỉ cướp phá những vùng Peschavar, Lahore và Moultan mà không tìm ra tông tích quốc vương. Đầu mùa xuân họ rút trở về A-phú-hãn vì chịu không nổi thời tiết ở đây. Oa-Khoát-Đài tiếp tục bình
định vùng cao nguyên A-phú-hãn còn Sát-Hợp-Đài thì bình định Kirman và Beloutchistan.
Djélal-Ed-Din còn được 50 tàn binh, sau khi qua sông Indus liền đi thuyết phục một số bộ lạc ở miền Bắc Ấn Độ rồi tổ chức một đạo binh kéo đi bao vây thành Delhi. Không chống nổi áp lực, vị quốc vương ở đây phải tiếp đón ông trọng thể rồi gả công chúa cho ông. Mấy năm sau, chờ cho quân Mông Cổ rút đi ông mới trở về A-phú-hãn, và sau khi Thành Cát Tư Hãn chết mới về Ba Tư, nhưng rồi bị một đạo binh Mông Cổ khác đuổi chạy qua Trung Đông và chết trong một trận đánh cướp lương thực.
Trận đánh bên bờ sông Indus là một trận kết thúc chiến cuộc Kharesm. Bấy giờ còn một vài thái ấp tự trị như Farsistan, Louristan, Kurdistan… chỉ cần vài cánh quân nhỏ trẩy đi thị uy là đâu đó đều xếp giáp. Đế quốc Kharesm bị xoá hẳn trên bản đồ từ đó.
Trong lúc chờ đợi Tốc Bất Đài thám sát các xứ phía Tây, Thành Cát Tư Hãn định trở về Mông Cổ theo ngả đường Tây Tạng để sát nhập xứ này vào đế quốc luôn. Ông liền sai một số tướng lãnh đang đóng ở Pamir đi dọ dẫm đường trẩy quân, nhưng họ đều báo cáo không thể đi được, nhất là pháo binh Mông Cổ có mang theo nhiều loại máy nặng nề.
Đại hãn lại định chinh phục luôn xứ Ấn Độ, nhưng khí hậu ở đó quá nóng, binh sĩ Mông Cổ không thể nào chịu nổi. Bịnh dịch lại phát ra dữ dội trong đạo binh đuổi Djélal ở Ấn Độ về, giống y như hồi kết thúc trận đánh nước Kim.
Theo truyền thuyết thì lúc đi tới rặng núi Hindou-Kouch, Thành Cát Tư Hãn có gặp một con vật lạ hình vóc cỡ con nai, lông màu xanh lá cây, đuôi như đuôi ngựa và ngay giữa trán có một cái sừng. Đại hãn hỏi Chu Thai. Quân sư tâu bày như sau: “Con vật ấy xuất hiện chính là Trời sai đến báo cho Ngài biết không nên làm cho đổ máu vô cớ. Đại hãn đã chiến thắng đế quốc Kharesm ở phương Tây, còn Ấn Độ ở phương Nam không hề gây hấn. Ngài là con của Trời và những dân tộc khác cũng đều là con của Trời, hãy thương yêu họ như đàn em. Muốn được Trời ban cho mãi đặc ân, hãy để cho dân xứ ấy sống yên lành…”
Thành Cát Tư Hãn không bao giờ hành động trái ý Trời. Lần này ông cũng cúi đầu vâng mệnh; rồi dẫn quân về Mông Cổ theo con đường cũ….
Chương XVIII
TÌM THUỐC TRƯỜNG SINH
Năm chiếm thành Samarkande là năm Thành Cát Tư Hãn sắp bước vào tuổi 60. Tuy sức vẫn còn tráng kiện, vẫn còn hăng say săn bắn và xông pha trận mạc, ông cũng cảm thấy mình bắt đầu già, thường nghĩ tới mọi việc sẽ xảy ra sau khi mình từ giã cõi đời.
Trong đám vương tử không có người nào tài trí hoàn toàn có thể tiếp tục thực hiện công trình vĩ đại của ông. Thời giờ không còn nữa và chẳng biết đế quốc Mông Cổ sau này sẽ ra sao?
Những giống người ở đô thị tuy không hùng mạnh nhưng quả thật rất khôn ngoan, hình như họ có thuốc hoặc thuật trường sinh bất tử. Nghe nói ở nước Kim có ẩn sĩ Trường Xuân Tử, một tín đồ đạo Lão, rất am tường lẽ sinh hóa, hẳn ông ta nắm được thuật ấy.
Thành Cát Tư Hãn liền sai vị chưởng ấn thảo một chiếu thư gởi cho đạo sĩ:
“... Trời đã bỏ nước Kim vì nước này sống xa hoa trụy lạc. Riêng ta, ta rất ghét sự xa hoa mà chỉ chuộng tiết dục. Cách ăn mặc của ta bao giờ cũng đạm bạc. Bữa ăn của ta không khác bữa ăn của đứa mục đồng nghèo hèn; không bao giờ ta để cho dục vọng lôi cuốn. Lúc trẩy quân thì ta đi đầu, lúc giao chiến không bao giờ ta ở sau, cho nên ta mới thành công trong mưu đồ đại sự đem thiên hạ về một mối. Ở ngôi chí tôn cao cả, trách nhiệm của ta thật nặng nề. Ta coi dân như con đẻ, lúc nào cũng gắng sức xây dựng cảnh an lạc, nhưng chắc còn nhiều điều lầm lỗi: muốn qua sông phải có thuyền chèo; muốn cho đế quốc bình trị phải trọng dụng người hiền. Ta tự xét thấy đức còn mỏng nên càng quý trọng bậc hiền tài...
Nay ta nghe nói đạo trưởng đang theo chính đạo, đạt được chân lý, người trong bốn cõi không ai không biết. Ta thật lòng ngưỡng mộ nhưng chẳng biết làm thế nào để tới cửa đạo trưởng. Nếu đạo trưởng không nệ khó nhọc bước tới viên môn, ta sẽ vô cùng hoan hỉ bước xuống ngai vàng đứng bên cạnh để nghe lời dạy bảo. Xin đạo trưởng đừng ngại núi cao đồng rộng, sa mạc hoang vắng, hãy thương xót chúng sinh, hãy tới truyền cho ta thuật trường sinh bất tử. Ta đã ủy thác cho quan thị vệ sắm sửa trọng lễ, lo đầy đủ ngựa xe đến rước. Ta sẽ thân lo phụng sự và chỉ mong đạo trưởng ban cho cái lẽ thông đạt: một lời nói của đạo trưởng cũng đủ làm cho ta thấy hạnh phúc rồi...”
Tiếng là mời với lời lẽ thật khiêm tốn, nhưng đó là một cái lệnh của đại hãn không thể không tuân theo.
Lúc bấy giờ Trường Xuân Tử đã 72 tuổi đang sống ẩn dật, coi công danh phú quý như phù vân. Trước đây đạo sĩ lấy cớ tuổi già, tật bệnh, từ khước lời mời của vua Kim, vua Tống, bây giờ thế không thể được. Quan thị vệ cũng hết lời khẩn cầu vì ông ta thừa biết không làm tròn cái sứ mạng này thì đầu không còn nằm trên cổ nữa!
Tháng 5 năm 1220, đạo sĩ Trường Xuân Tử phải lên đường qua phương Tây, trải 50 kinh tuyến. Chưa bao giờ trong lịch sử thế giới có một hoàng đế biết sùng kính một đạo sĩ như Thành Cát Tư Hãn. Cuộc hành trình của Trường Xuân Tử thật chẳng khác gì một cuộc khải hoàn. Đi tới đâu cũng gặp dân chúng và hàng tu sĩ, đạo sĩ kéo tới tấp nập để tỏ lòng ngưỡng mộ. Lúc đi ngang qua Mông Cổ, hàng vương gia, quý tộc đều ra đón tiếp một cách rất thành kính.
Một năm rưỡi sau ông mới tới thành Samarkande. Nghe tin, Thành Cát Tư Hãn liền phái Bác Nhĩ Truật, nhân vật cao cấp nhất trong quân đội, dẫn một đám tùy tùng đi đón ông trong đoạn đường cuối cùng và đưa qua rặng núi Indou-Koush tới Đại bản doanh thường trực của đại hãn.
Thành Cát Tư Hãn thân ra ngoài viên môn đón với lời lẽ thật nồng hậu: “...Nhiều bậc đế vương đã mời đạo trưởng, nhưng đạo trưởng đều từ chối. Riêng đối với ta, đạo trưởng phải vượt 10 ngàn dặm tới viếng thăm, thật là hân hạnh...”
Trường Xuân Tử không phải là hạng người thích xảo ngôn. Thực sự ông bị cưỡng bách chớ đâu có tự nguyện đến đây, nên không thể lờ đi trước những mỹ từ của đại hãn:
- Kẻ thô lậu ở chốn sơn dã đến đây bái kiến là do lệnh của đại hãn. Đó cũng là do ý của Trời.
Ông không quỳ xuống lạy, chỉ chắp tay lên ngực khẽ cúi đầu. Đến lúc dự yến ông chỉ ăn một ít bột mang theo từ Samarkande, từ chối các thứ thịt và rượu koumiss. Đại hãn không lấy thế làm khó chịu mà còn ra lệnh cho ban ngự thiện phải cố gắng sửa đổi món ăn cho thích hợp với đạo sĩ. Lại cho tổ chức một đội công cán đặc biệt vào tận thung lũng Hindou-Koush cách đó hàng mấy trăm dặm tìm các thứ rau tươi và trái ngon.
Đại hãn hỏi điều quan trọng nhất:
- Này đạo trưởng! Từ xa xôi đến đây, đạo trưởng có mang theo thuốc trường sinh không?
Trường Xuân Tử nở một nụ cười hết sức bình thản, chậm rãi trả lời:
- Tâu đại hãn, có rất nhiều phương pháp để kéo dài cuộc sống, nhưng không có thứ thuốc nào làm cho con người thọ muôn năm được!
Tất cả những cận tướng có mặt đều hết sức kinh ngạc, ai cũng chú mục nhìn lại ông lão kỳ lạ, trải 10 ngàn dặm đến đây để trả lời bâng quơ như thế, quả ông ta không kể gì tới cách ưu đãi tột bực và lòng ngưỡng mộ của đại hãn.
Nhưng Thành Cát Tư Hãn chọn ngày nhập môn và cho dựng lên một cái lều riêng...
Nhưng có tin quân kháng chiến lại tập họp trong các vùng núi để phản công và vài bộ lạc sắp phản loạn. Đại hãn hết sức bận rộn về chiến sự đành phải gác lại vô hạn định việc học đạo.
Trường Xuân Tử xin về ở Samarkande, nhưng đường đi lúc bấy giờ rất nguy hiểm. Thành Cát Tư Hãn cố thuyết phục cho ông ở lại, nhưng ông vẫn nhất quyết: “Chốn ba quân quá ồn ào náo động, bần đạo cần nơi yên tĩnh để dưỡng tâm”.
Đại hãn đành chiều theo và dù đang rộn rịp chuẩn bị chiến dịch cũng phái một ngàn quân đưa đạo sĩ tới đế kinh để cho ở trong một tòa vương cung nằm giữa một vườn cây rợp bóng với đủ loại kỳ hoa dị thảo.
Mãi cho đến mùa thu, Thành Cát Tư Hãn mới trở về đóng Đại bản doanh ở gần Samarkande. Bọn quyền quý, tu sĩ, hào mục lũ lượt kéo đến xin bái kiến.
Đây là lần đầu tiên du mục chiếm một xứ văn minh mà không nắm quyền thống trị trực tiếp. Quân sư Chu Thai lãnh trách nhiệm lập quan hệ thường xuyên giữa dân tộc bại trận với kẻ chiến thắng. Ông thiết lập an ninh trật tự vững chắc ở các đô thị, định lại các khoản thuế khóa, bổ quan chức cai trị khắp nơi nhưng dùng toàn là dân bản xứ, bên cạnh chỉ đặt những thanh tra Mông Cổ (Darouga) để phòng ngừa mưu toan phản động hoặc sự đụng chạm giữa người Mông Cổ và người Ba Tư.
Đại hãn nói với những tu sĩ Hồi giáo:
“Trời đã giúp ta chiến thắng quốc vương của các ngươi, thế có nghĩa là Trời đã đạp đổ và hủy diệt hắn.
Bây giờ các ngươi nên về cầu Trời phù trợ cho ta!”
Khi biết được dưới triều Mohammed tu sĩ ai cũng phải đóng thuế, đại hãn ngạc nhiên hỏi:
- Vậy việc các ngươi cầu nguyện cho hắn, hắn không thiết đến sao?
Sau đó, ông ra lệnh trả lại tất cả các số thuế đã đóng góp cho triều trước.
Bây giờ mỗi đêm Trường Xuân Tử phải đến lều biệt lập để giảng đạo lý. Đây là chỗ cấm nhặt phụ nữ vãng lai, chỉ có đại hãn, Đà Lôi với những tay cầm quyền cao cấp nhất. Giữa đêm khuya yên tĩnh, họ ngồi lắng tai nghe những lời nói cao sâu huyền diệu. Chu Thai giữ vai trò thông dịch viên, ghi lại tất cả những điều đạo sĩ giảng, bằng chữ Trung Quốc và chữ Thổ Phồn.
Một hôm, đại hãn hỏi làm thế nào để thống trị đế quốc được lâu bền, mãi mãi...
Trường Xuân Tử trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi đáp qua nụ cười:
- Tiếng sấm không kéo dài được suốt buổi sáng, cơn mưa lớn cũng không lâu hơn một ngày. Ai tạo ra những thứ ấy? Chính là Trời và Đất. Trời Đất còn không thể làm cho lâu bền được thì con người làm sao
tạo được những thứ trường cửu?
Đại hãn tỏ ý lo ngại về những khó khăn trong việc cai trị, đạo sĩ nói:
- Cai trị một đế quốc rộng lớn chẳng khác gì nấu loại cá nhỏ. Không nên đánh vảy, xáo trở, hoặc để cháy khét mà phải chăm nom chu đáo, làm sao cho nó chín đều... Biết đối xử công bằng sáng suốt với mọi người mới đáng là bậc minh quân.
Từ đó Thành Cát Tư Hãn thường băn khoăn nghĩ ngợi:
- Nếu gác việc đời qua một bên có lẽ mất tất cả...
Trường Xuân Tử cố tìm lời khích lệ:
- Cái gì đã chôn chặt rồi thì khó nhổ lên; tư tưởng đã thâm nhiễm rồi thì khó mất đi. Phải hành động theo
Đạo là con đường chính, con đường Vĩnh viễn tức Vô vi...
Đạo sĩ lần lượt giảng giải triết lý nhiệm mầu của Lão Tử.
Rõ là những tư tưởng hoàn toàn xa lạ, hoàn toàn trái ngược với quan niệm thông thường của người Mông Cổ; nhưng đại hãn cũng cảm thấy nó là cái gì cao cả, huyền diệu, đáng tôn sùng. Ông nói với các tướng: “Những điều đạo sĩ nói đều là do Trời ban cho ông ấy. Ta ghi mãi trong thâm tâm, các người cũng nên cố gắng làm theo, nhưng không nên truyền ra ngoài”.
Đại hãn lại triệu tập Hội đồng Kouriltai, nhưng lần này không bàn tới việc quân; cuộc nhóm họp này là cuộc đại hội liên hoan mừng chiến thắng vĩ đại, kéo dài hàng tháng.
Đời sống ở đây quả là đời sống lý tưởng, hằng ngày họ cỡi ngựa thung dung đi dạo, thỉnh thoảng tổ chức một cuộc săn, rồi thiết tiệc, tặng lễ vật, chia của cải, nào quần áo rực rỡ, vũ khí tối tân, nào gái đẹp, ngựa quý, thức ăn ngon, rượu hảo hạng... rõ là cảnh sống thiên đàng trời dành cho dân Mông Cổ.
Trong tay họ bây giờ có tất cả những thứ quý báu nhất trong thiên hạ: kim cương, bảo ngọc, đồ trang sức bằng vàng chạm trổ tinh vi: trong lều thì trang hoàng toàn bằng lụa là gấm vóc. Đại hãn đã có mũ miện giát ngọc, chiếc ngai vàng của Mohammed.
Ông tỏ ra không thích mấy nhưng quân sư Chu Thai khuyên:
- Ở nước nhà ngài có thể sống theo sở thích, nhưng ở đây ngài cần phải phô trương sức giàu mạnh cho mọi dân tộc đều thấy.
Đại hãn cũng nghe theo nhưng có một việc ông nhất định không thay đổi là cứ mặc bộ đồ bằng vải sô cũ kỹ, trên mình không đeo một món đồ trang sức nào cả. Ông vẫn giữ chiếc áo lông hắc điêu, mũ và đai cũng viền thứ lông ấy để giữ mãi cái vẻ quý tộc của dân đồng cỏ. Ông cũng không hề nghĩ tới việc dựng một kinh thành vững chắc để đặt đầu não bộ máy cai trị. Nghe theo Chu Thai, ông mới cho dựng thành Karakorum ngay giao điểm các ngõ đường thương mãi. Ông nói:
- Các con của ta có lẽ thích ở nhà xây bằng đá trong những đô thị, còn ta thì “không bao giờ”.
Trong thâm tâm ông muốn cho đám con cháu sau này và dân tộc Mông Cổ hãy cứ sống tự do khoáng đạt theo lối du mục.
Nhưng các vương tử thì muốn khác... Nhất là Truật Xích làm cho ông lo ngại hơn hết. Lần này trong Hội đồng Kouriltai chỉ có mặt Sát Hợp Đài, Oa Khoát Đài, còn Truật Xích thì không thấy về.
Một hôm đám quý tộc tổ chức cuộc săn heo rừng có đại hãn tham dự. Bỗng một việc bất ngờ xảy ra: đại
hãn đã bắn trúng một con heo to lớn, tưởng nó sắp chết liền phóng ngựa tới định bồi thêm một phát nữa, chẳng ngờ nó đâm bổ vào ngựa hung tợn lạ thường; ngựa hoảng sợ lồng lên hất đại hãn rớt xuống đất. Nhưng lạ thay con heo chỉ đứng nhìn ngơ ngác thì ngay lúc ấy nhiều người chạy tới, nó liền chui vào bụi rậm. Đại hãn bị xúc động mãnh liệt, không hiểu tại sao mình có thể té ngựa được. Trước kia gặp trường hợp ngựa hoảng sợ chồm lên có bao giờ ông rơi dễ dàng như thế. Và có điều không hiểu nổi là đang lúc nổi cơn hung bạo mà con heo bỗng nhiên dừng lại... Chu Thai giải đáp:
- Đó là Trời có ý muốn cảnh giác đại hãn “đừng nên dấn thân vào chỗ nguy hiểm nữa”, nhưng Trời chưa muốn mất ngài nên khiến cho con heo phải dừng lại và chạy đi.
Đại hãn hỏi Trường Xuân Tử. Vị đạo sĩ thì ngược lại không tin có Trời, có ông Trời biết thương con của mình ở dưới trần, có lúc phải cảnh cáo nó hoặc thưởng phạt nó. Theo ông thì các loài sinh vật đều chẳng khác những con ngựa bện bằng rơm dùng để cúng tế. Lúc đem tế thì người ta đặt nó lên chỗ trang trọng nhất, phủ lụa là lên. Thầy cúng phải trai giới trước khi tế các thần linh. Nhưng xong rồi thì liệng nó xuống đống rác, kẻ qua lại không ai muốn nhìn nữa; rồi sau cùng có kẻ nào đó lượm đem về nhúm bếp.
Khi thời vận đã tới với nhân vật nào thì người đó sẽ thấy bàn tiệc của cuộc đời dọn ra có sẵn sàng mọi thứ để cung phụng mình. Nhưng thời qua rồi thì người đó cũng sẽ bị ném xuống đất cho kẻ khác giẫm lên.
Đã đến lúc đại hãn phải bỏ thú đi săn.
Nhưng Thành Cát Tư Hãn cho rằng tuổi 61 chưa phải là tuổi quá già đối với những thú vui như thế. Ông thấy mình vẫn còn tráng kiện, quắc thước, cố cãi lại đạo sĩ:
- Thật khó mà bỏ những cái thú mà mình đã đeo đuổi suốt cả cuộc đời!
Trường Xuân Tử liền nêu lên một hình ảnh khác cụ thể hơn:
- Đông qua thì tới xuân, rồi hạ, thu, lại tới đông. Nhưng đời người thì khác hẳn: mỗi ngày của cuộc sống đều chứa chất bao nhiêu chuyện của những ngày qua, cho đến hết cuộc chuyển vần thì con người lại trở về gốc ban đầu là nghỉ ngơi. Nghỉ ngơi là lúc tận cùng của vận số, là sống theo đạo Trời. Người trí phải sáng suốt lẽ ấy.
Nghe xong, Thành Cát Tư Hãn đăm chiêu nghĩ ngợi một lúc lâu rồi mới nói:
- Ta sẽ ghi nhớ mãi lời nói của đạo trưởng.
Từ đó Thành Cát Tư Hãn không đi riêng một mình trong những cuộc săn nguy hiểm nữa.
Bây giờ Trường Xuân Tử lại nằn nằn đòi trở về Trung Quốc. Đại hãn cố giữ lại:
- Ta cũng sẽ về Mông Cổ. Đạo trưởng hãy nán lại một ít lâu rồi cùng về một lượt.
Đạo sĩ vẫn nhất quyết:
- Bần đạo đã giảng giải tất cả những điều mà đại hãn muốn biết. Bây giờ không còn chi để nói nữa!
Thành Cát Tư Hãn vẫn cố kéo dài ngày chia tay, cốt để tìm một tặng phẩm quý giá xứng đáng ban cho đạo sĩ, nhưng Trường Xuân Tử chẳng muốn nhận một thứ nào cả, chẳng cần đặc ân, chẳng cần địa vị...
- Tất cả những thứ ấy chẳng có giá trị gì hết. Được ân huệ hay bị thất sủng đều gây cho con người nhiều nỗi lo âu. Được ân huệ thì sợ mất, mất rồi thì đâm lo buồn!
Đại hãn vẫn cố thuyết phục:
- Hẳn đạo trưởng cũng muốn thực hiện điều gì! Nếu đạo trưởng bị bỏ rơi thì làm sao truyền bá giáo lý ra được?
Trường Xuân Tử nở một nụ cười thanh thản, giọng thật trầm tĩnh:
- Bậc cao nhân gặp thời thế thuận lợi mới hành động; nếu không thì giũ áo ra đi rồi thì cùng với cỏ cây mục nát có chi mà lo!
Thành Cát Tư Hãn lặng thinh không nói gì nữa. Rồi cắt một đạo quân tiễn đưa đạo sĩ lên đường, với nhiệm vụ phải lo chu tất mọi tiện nghi và bảo đảm an ninh cho tới đất Trung Quốc. Ông lại ban cho đạo sĩ một cái điện lộng lẫy nhất trong hoàng thành Yên Kinh, chung quanh có vườn hoa trăm thức, có hồ nước lóng lánh như gương. Trường Xuân Tử không từ chối, xin dùng nơi đó làm đạo viện luôn cho cả đời sau. Ông mất cùng năm, cùng tháng với Thành Cát Tư Hãn.
Chương XIX
ĐẠI THẮNG QUÂN NGA
Lãnh thổ Géorgie nằm ở khoảng giữa cánh đồng lầy bên biển Caspienne và rặng núi Caucase. Từ mạn đông, Tốc Bất Đài và Triết Biệt xua 30.000 quân qua thái địa Azerbeijan, càn quét xứ Kourdistan rồi tiến vào Géorgie, một xứ Thiên Chúa giáo.
Quân đội Géorgie cũng là quân kị khí thế rất kiêu hùng, lúc đó đang chuẩn bị tham dự cuộc thánh chiến của Thập tự quân, liền gác lại dự định ấy xông ra giao chiến với quân Mông Cổ. Lúc lâm trận quân Mông Cổ trương cây đại kỳ có hình chim bạch ưng xòe cánh khiến quân Géorgie ở xa lầm tưởng là hình cây thánh giá nằm nghiêng. Cuộc giao tranh rất ác liệt nhưng ngắn ngủi; quân Mông Cổ giả vờ bại tẩu nhử cho quân địch đuổi theo đến ổ phục kích của Triết Biệt, rồi quay trở lại hai mặt cùng đánh thốc vào, trọn đạo quân Géorgie bị hủy diệt.
May cho dân chúng là hai tướng Mông Cổ không có ngày giờ càn quét, sau trận này họ liền dẫn quân tiến lên vùng cao nguyên vượt qua những rặng núi chọc trời. Vì vậy mà Koussoudane nữ hoàng Géorgie, cho rằng quân Mông Cổ bị hoàng gia đánh bật ra khỏi xứ.
Nữ hoàng gởi cho đức giáo hoàng một bức thư nói về cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ, trong đó có đoạn như sau: “...Một dân tộc dã man thuộc giống Thát Đát rất tàn bạo, hung hãn, háo sát như chó sói, nhưng can đảm chẳng thua sư tử. Có điều lạ là theo Thiên Chúa Giáo, trên cờ của họ có hình thánh giá nằm nghiêng. Họ toan xâm chiếm nước tôi,nhưng quân đội Géorgie đã anh dũng chiến đấu, quét họ ra khỏi bờ cõi, giết được 25.000 tên rợ. Vì vậy mà quân lực của tôi không thể sẵn sàng tham dự cuộc thánh chiến như đã hứa với ngài…”
Cuộc trẩy quân qua rặng Caucase cũng thiên nan vạn nan không thua gì chuyến vượt núi Pamir trước đây. Quân Mông-cổ phải huỷ bỏ tất cả những đồ nặng nề kềnh càng, cả những máy bắn đá, máy phóng hoả vì không thể nào kéo qua những vách đá chênh vênh cao ngất. Nguy hơn nữa là sau khi vượt qua được những đỉnh tuyết phủ, những đèo trơ vơ trong mây mờ, những sườn đá đen dốc đứng, những đường hang khúc khuỷu thác đổ ầm ĩ, xuống tới thung lũng Terke, thì một đạo quân hùng hậu của địch đã dàn sẵn ra đó chờ đợi từ lúc nào, y như Mohammed đã chờ họ ở Đại-uyển.
Tất cả những dân hiếu chiến ở miền sơn cước và mạn núi Caucase như Tcherkesse, Lesghine, Alain đều góp mặt ở trận này để bảo vệ xứ sở của họ. Trong số đó kinh khủng nhất là dân Komane ở Khâm-sát, một giống dân man rợ coi việc chém giết là một trò thích thú nhất đời. Vùng đồng hoang từ biển Caspienne đến sông Danube là giang sơn của họ xưa nay chưa ai dám khuấy phá; giờ nghe nói có kẻ muốn xâm phạm, họ tức tốc kéo tới chặn địch
Binh Mông-cổ hầu hết đều kiệt lực, nếu lao mình vào cuộc ác chiến với kẻ địch đông gấp ba, bốn lần chắc chắn sẽ thảm bại.
Ngày hôm sau một đoàn đại biểu Mông-cổ mang vàng bạc, gấm vóc, ngựa quý đến trại quân Komane cố gắng thuyết phục họ: "Chúng tôi là người đồng chủng với các bạn; các bạn nỡ nào liên kết với bọn ngoại chủng kia chống lại anh em trong nhà? Họ có làm gì lợi cho các bạn đâu? Hiệp với chúng tôi các bạn sẽ có tất cả những thứ các bạn muốn…"
Quân Komane liền ly khai bọn đồng minh rút hết về đoàn trại.
Tốc-Bất-Đài liền tấn công quân sơn cước, đánh tan vỡ đám quân kị, triệt hạ pháo đài của họ rồi bắt đám tráng binh nhập vào cơ ngũ quân Mông cổ, xong lại đuổi theo quân Komane diệt hết toán này đến toán khác và lấy lại tất cả những tặng phẩm. Quân Komane chửi rủa sự phản bội trắng trợn; Tốc-Bất-Đài đáp rằng chính họ mới là kẻ phản bội trước tiên rất xứng đáng lãnh một cuộc trừng phạt như thế! Triết-Biệt tuyên bố họ là những kẻ phản loạn vì tất cả dân ở Khâm-sát đều là dân phiên thuộc của vương tử.
Thật ra dân Komane chưa bao giờ nghe nói đến tên Truật-Xích. Mấy lúc qua buôn bán với các bộ lạc ở mạn Đông biển Caspienne họ có nghe mang máng ở đâu bên phương Đông có một vương gia thường cho quân quấy nhiễu mấy bộ lạc ấy. Hai vị đại tướng liền đưa cho họ xem tờ hiểu dụ của vị “Chúa tể các dân tộc” viết bằng thứ chữ ngoằn ngoèo kỳ lạ không ai hiểu được, theo đó thì tất cả dân Komane đều là thần dân của vương tử Truật-Xích và quân đội của vương tử đến đây là để trừng phạt họ về tội phản loạn! Đã thấy lối hành binh thần tốc với những loại khí giới lợi hại lạ lùng và nghe đồn đãi quân Mông-cổ đi đến đâu cũng giết sạch dân chúng, giờ lại đến đây để trừng phạt, dân Komane hãi hùng đến tột độ. Họ cấp tốc gom góp tất cả của cải chất lên lưng ngựa rùng rùng chạy về phương Tây và phương Bắc. Đoàn người di cư chạy như gió cuốn nước tràn, sau lưng thì vó ngựa Mông-cổ dồn dập đuổi theo.
Tốc-Bất-Đài và Triết-Biệt dẫn 30.000 kị binh lao về phía Tây, vượt qua song Don rồi dọc theo duyên hải biển Azov. Đâu đâu cũng thấy đất phì nhiêu, cây cối sum suê, mục trường xanh non, thật là cõi đất thần tiên. Họ lại vượt qua nhiều rặng núi tiến đến tận cùng bán đảo Crimée và dừng lại trước thành Génois một trung tâm thương mại khá phồn thịnh.
Giá bọn cầm quyền ở đây cử một đoàn sứ giả đến thương nghị với Tốc-Bất-Đài thì đâu đó êm ru. Đằng này họ đóng cửa thành và chỉnh bị binh mã tác chiến. Quân Mông cổ liền tấn công như vũ bão, chiếm thành rồi phóng hoả đốt. Những kẻ còn sống sót đều xuống thuyền trèo ra biển trốn qua các xứ Đông-âu.
Nhưng hai dũng tướng Mông-cổ vẫn chưa biết mỏi mệt. Họ tiến sâu mãi về phía tây, vượt qua sông Dnieper, tới sông Dniester. Tới đây đất vẫn còn trải rộng mênh mông bát ngát. Xa hơn nữa là xứ của giống dân da trắng: phía Bắc là thái địa của Nga, phía Tây-Bắc là thổ lãnh Ba-lan, phía Tây là xứ Hung-gia-lợi, phía Nam là đế quốc Byzantin…
Trên một vạn gia đình Komane thoát qua sông Danube đến bái kiến hoàng đế Byzance xin tị nạn. Trước đó hoàng đế đã có nghe dân Géorgie nói đến “giống dân lạ mặt mũi như quỉ sứ”, bây giờ họ lại xuất hiện ngoài vùng biên thuỳ Đông-Bắc! Quá kinh hoàng, nhà vua liền hạ lịnh cấp tốc tăng cường phòng thủ kinh thành, chiêu mộ thêm lính mới…
Nhưng tướng Mông-cổ không có nhiệm vụ chinh phục các xứ phương Tây. Cuộc hành binh này chỉ là để thám thính, nên tại đây bên bờ Hắc-hải, Tốc-Bất-Đài án binh lại chờ qua mùa đông sẽ trở về Mông-cổ. Nhưng không quên lợi dụng lúc nghỉ ngơi gửi thám tử đi dò dẫm các xứ xung quanh.
Lúc về bái kiến đại hãn, Tốc-Bất-Đài dâng một báo cáo đầy đủ và chính xác về các xứ Âu-châu. Thành-Cát-Tư-Hãn đã căn cứ vào báo cáo ấy thảo một kế hoạch chinh phục Âu-châu, thực hiện trong 8 năm. Trong giai đoạn 6 năm đầu chính Tốc-Bất-Đài thống lĩnh đoàn quân viễn chinh qua Nga, Hung-gia-lợi, Bảo-gia-lợi, Silésie, Serbie dày tan lực lượng của các quốc gia này, rồi đặt nền thống trị… Trong khi ấy các ông hoàng ở Âu-châu lại chẳng hề biết một chút gì về dân Mông-cổ!
Vương tử Mistislav de Haliez trước đây cưới con gái của khả hãn Komane để nhờ bộ lạc này làm bình phong che chở cho thái địa của mình. Bây giờ tình thế bỗng đảo ngược lại, khả hãn chạy qua Nga dâng một số cống phẩm lớn lao khẩn cầu vương tử xuất quân đuổi bọn xâm lăng "không biết từ xứ nào lại nói thứ tiếng không ai hiểu nổi, muốn bắt tất cả các dân tộc phải làm nô lệ cho họ".
Mistislav liền triệu tập một hội nghị các hoàng thân Nga ở Kiev.
Thật ra dân Komane là kẻ thù địch muôn đời của người Nga; dân Nga luôn luôn khốn đốn vì những cuộc quấy nhiễu cướp bóc của họ: bây giờ nếu không giúp, họ có thể liên kết với bọn giặc xa lạ kia xâm lược các thái địa. Nếu chống giặc, thượng sách là diệt chúng tại xứ Komane trước khi chúng tràn vào lãnh thổ của mình…
Thế rồi từ các thành Kiev, Koursk, Smolensk, Volhynie, Haliez, nhiều đạo quân tiến phát về địa điểm hội binh ở gần biển Hắc-hải. Trên các con sông Dnieper và Dniester, nhiều chiến thuyền Nga cũng kéo tới, lực lượng của Nga càng lúc càng tăng gia chưa kể các bộ lạc Komane bị đánh tan rã trước đây, lần lượt hồi tập hợp lại sát cánh với quân Nga.
Khi liên quân Nga kéo đến vùng hạ lưu sông Dnieper, Tốc-Bất-Đài liền phái một sứ đoàn 10 người tới Đại bản doanh Nga: "Tại sao người Nga lại gây chiến với chúng tôi? Người Mông-cổ không hề làm gì thương tổn đến tình giao hảo giữa đôi bên; quân Mông-cổ đến đây chỉ để trừng phạt bọn Komane là dân phiên thuộc đang phản loạn".
Tốc-Bất-Đài tỏ ra rất am hiểu nội tình:
- Các ông cũng thừa biết bọn Komane thường xâm phạm lãnh thổ Nga, cướp đoạt giết chóc. Đáng lẽ người Nga phải hợp lực với binh Mông-cổ tiễu trừ bọn Komane.
Quân Nga thấy rõ lối ngoại giao này chỉ là một thủ đoạn gian trá, một đòn ly gián các xứ đồng minh. Thật ra có bao giờ dân Komane làm phiên thần Mông-cổ. Mười sứ giả liền bị lôi ra chém; quân Nga lẳng lặng vượt qua sông Dnieper đánh úp 1000 quân tiền đạo Mông-cổ.
Trước khi mở màn trận đánh báo thù,quân Mông-cổ muốn dạy quân Nga một bài học về “ luật quốc tế ”. Họ phái hai kị sỹ đến trước trại quân Nga nói vọng vào: "Chúng bây giết sứ giả của quân ta, đột kích quân tiền đạo, chúng bây muốn chiến tranh. Được lắm… Phải nhớ kỹ là quân ta chẳng làm điều gì thiệt hại cho chúng bây. Trên tất cả các dân tộc còn có Trời. Trời sẽ xét xử sau…"
Quân Nga rất đỗi kinh ngạc trước thái độ của hai tên kị sỹ, kinh ngạc vì họ đến đây chỉ để công khai tuyên chiến, coi cái chết như trò đùa, cho nên lần này họ để cho chúng bình yên trở về.
Suốt chín ngày liền Tốc-Bất-Đài và Triết-Biệt vừa đánh vừa chạy nhưng không lúc nào rời xa quân Nga, rồi thình lình họ dừng lại sau con sông Kalka. Tám vạn liên quân Nga - Komane dàn ra trước đạo quân Mông - cổ. Mistislav nhất quyết không để cho kẻ địch trốn thoát và, vì muốn chiến công đều về tay mình, liền độc lực tấn công địch trong khi Mistislav de Kiev còn đang củng cố vị trí ở thượng lưu sông Kalka. Nhưng quân Mông-cổ chỉ nhắm vào nhược điểm của địch là cánh quân Komane. Họ phóng hết kị binh vào hàng ngũ Komane, chém giết tơi bời rồi tẻ ra làm nhiều cánh đánh thốc vào mặt trận Nga. Bị tấn công chớp nhoáng thế như vũ bão, hàng ngũ quân Nga nhốn nháo tán loạn. Kết quả là chỉ có một phần mười quân Nga trốn thoát được cuộc thảm sát. Mistislav đào tẩu trên một chiếc thuyền sau khi đốt tất cả thuyền chiến để tránh cuộc truy đuổi của quân địch.
Quân Mông-cổ lại kéo xốc tới bao vây trại của Mistislav de Kiev. Chỉ một đợt tấn công họ chiếm được trại, 10.000 binh Nga không một người nào còn sống để đem tin thảm bại về cho hoàng đế. Tổng kết trận này có 6 hoàng thân và 70 nhà quý tộc phải đổi mạng với 10 sứ giả quân Mông-cổ. Khắp nước Nga lúc bấy giờ không còn một đạo quân nào có thể đương đầu với quân Mông-cổ nữa.
Nhưng hai tướng Mông-cổ cũng không thể chiếm nước Nga bằng ba vạn phu đó được. Trái với thói quen của họ, lần này họ chỉ đuổi bại quân một đỗi đường ngắn rồi tràn tới các thị trấn lân cận cướp giật, chém giết để trả thù. Hả mối hận rồi họ liền phi lên mạn Bắc, vượt qua những đồng hoang miền Nam bộ đến tận chân rừng miền Bắc bộ Nga, mới chịu quay trở về phương Đông.
Trên đường về căn cứ họ phải qua lãnh thổ Bolgar ở khoảng thượng lưu sông Belgar. Đây là một xứ nông nghiệp, sản xuất rất dồi dào các loại da, sáp và mật. Quân Bolgar dàn ra ngoài biên cảnh chờ đợi… Nhưng cũng chỉ một trận giao chiến họ bị đánh tan vỡ rồi chịu làm phiên thần Mông-cổ, sáp nhập vào hãn địa của Truật-Xích. Dọc theo sông Volga còn 40 bộ lạc Saxine sống về nghề trồng tỉa và đánh cá, thấy quân Bolgar đã hàng phục đành cũng qui thuận theo.
Chương XX
NGÀY VỀ
Cuộc hành trình từ xứ A-phú-hãn về Mông-cổ phải mất một năm tròn. Bây giờ khói lửa đã yên, đại quân Mông-cổ thong dong tiến bước, không còn chi phải vội vàng nữa.
Dẫn đầu là một đoàn tù binh không biết cơ man nào mà kể và theo sau là đoàn lạc đà bất tận tải đủ các loại của báu. Những lúc dừng lại nghỉ ngơi, quang cảnh trại binh giống như một đoàn trại dân sự vì mỗi chú lính bây giờ đều có hai ba người vợ với một bầy con; gia súc đủ loại nhiều như kiến cùng những cỗ xe chất đầy của cải. Việc cắm trại hoặc nhổ trại, chăn súc vật đều giao cho bọn nô lệ. Cuộc khải hoàn thoạt nhìn tưởng như một cuộc di cư vĩ đại…
Bỗng có hai tên khoái mã đem tin cấp báo tới: tin thứ nhất là tin Mộc-Hoa-Lê chết, sau tám năm kiên trì bình định nước Kim. Viên đại tướng đã trối lại với người con trai như sau: "Ta xông pha trận mạc suốt 40 năm, giúp cho đại hãn thực hiện nhiều công nghiệp lớn lao, không hề biết sờn lòng, nhưng chỉ ân hận có một điều là không chiếm được Nam-kinh của đế quốc Kim. Vậy con hãy thay cha làm cho xong nhiệm vụ ấy…" Tin thứ hai là tin hoàng đế Kim đã băng hà, thái tử (Chou Su) lên nối ngôi. Dưới triều của tân vương, cuộc kháng chiến của quân Kim càng sôi động hơn trước.
Nghe tin sau Thành-Cát-Tư-Hãn không cho là quan trọng, vẫn để cho ba quân tiến thư thả. Ông chấp nhận cho Bu-Ru, con của Mộc-Hoa-Lê, tiếp tục công cuộc chinh phục nước Kim. Đại hãn chỉ trông đợi thái tử Truật-Xích về bái kiến, nhất là hai đại tướng Tốc-Bất-Đài và Triết-Biệt, vì cuộc hành binh thám sát ba năm quanh vùng biển Caspiene đã hết hạn.
Trông mãi vẫn không thấy tăm dạng Truật-Xích, hai đại tướng chỉ có Tốc-Bất-Đài trở về, còn Triết-Biệt đột nhiên lâm bịnh nặng rồi chết lúc vừa tới địa phận Tân-cương.
Quân đoàn của Tốc-Bất-Đài hao một số lớn chiến sĩ, nhưng bù lại họ dắt về vô số tù binh gồm đủ các giống dân xa lạ cùng với những cỗ xe nặng oằn chiến lợi phẩm nối tiếp nhau thành một con mãng xà vĩ đại.
Vào bái kiến đại hãn, Tốc-Bất-Đài bị giữ luôn trong viên môn suốt mấy tuần lễ để báo cáo tỉ mỉ mọi việc xảy ra trong những năm hành trình thám thính ở phương Tây.
Ba mươi ngàn quân Mông-cổ đã làm một cuộc viễn chinh không tiền khoáng hậu trong lịch sử thế giới: từ địa điểm tiến phát ở mạn Nam biển Caspienne, đoàn kị binh Mông-cổ đã phi 6.000 c.s. qua những cõi đất bao la, giao chiến 12 trận đều thắng tất cả, đánh bại 12 dân tộc, tất cả công lao hạn mã ấy đều là để xây dựng hãn địa của Truật-Xích, mà thái tử không có mặt để nghe báo cáo…
Đại hãn phải gửi liên tiếp nhiều toán khoái mã gọi thái tử tới: "Nó phải tới đây gặp ta! Còn phải chinh phục nhiều xứ khác nữa, đâu phải chỉ có đế quốc bé nhỏ ở bên biển Aral. Ta sẽ trao trọn phương Tây cho nó…"
Nhưng lần nào cũng vậy, ở Khâm-sát người ta báo rằng Truật-Xích đang lâm bệnh nặng. Rồi một ngày nọ, một tên Mông-cổ từ Khâm-sát mang tới một nguồn tin: thái tử đang đi săn!
Nghe xong đại hãn tức giận đến nộ khí xung thiên, liền phái hai khoái mã "tên bay" hoả tốc mang lịnh tiễn đến Sát-Hợp-Đài và Oa-Khoát-Đài, bảo hai vị vương tử phải huy động toàn lực tới hãn địa của Truật-Xích. Đại quân đang kéo về cũng tức khắc đình bộ, lịnh truyền từ vạn phu này đến vạn phu khác phải chuẩn bị tác chiến… trận giặc nội bộ sắp bùng nổ!
Thấy mối nguy cơ, Chu-Thai hết sức can gián Thành-Cát-Tư-Hãn, cố trình bày tất cả cái hiểm hoạ của một cuộc chiến tranh tương tàn nhưng vô hiệu quả. Thành-Cát-Tư-Hãn hét lên như sấm: “Nó là thằng bất trị! Chỉ có thằng bất trị mới dám coi thường mạng lịnh của ta! Một thằng bất trị không thể cai trị ai được…”
Hai vương tử đã trẩy quân lên mạn Bắc, đang sắp sửa bao vây quân Khâm-sát bỗng có một người con của thái tử bay ngựa tới cho hay Truật-Xích đã chết!
Sự thật thái tử không hề mở một chuyến săn nào cả, chỉ có đám tướng lãnh tổ chức cho quân đội một lần để cho họ có dịp hoạt động, giải trí. Suốt thời gian đó thái tử đang quằn quại trong lều vì một cơn bạo bệnh…
Nghe tin trên Thành-Cát-Tư-Hãn không ra khỏi viên môn, không tiếp xúc ai suốt hai ngày liền. Ông xin vong linh thái tử hãy tha thứ sự bất công của ông. Truật-Xích không hề nghịch ý phụ vương, không hề muốn ly khai, và dù đang bị cơn bịnh hành hạ không thể lên đường được, thái tử cũng tạ lỗi với phụ vương bằng cách sai người mang về dâng 20.000 con tuấn mã.
Hết hạn cấm phòng, đại hãn liền ra lịnh truy nã tên Mông-cổ đã báo tin láo khoét. Quân đổ đi tìm khắp hang cùng ngõ hẻm trong một tầm mấy trăm dặm mà vẫn không thấy bóng dáng tên man trá đó.
Đoàn quân viễn chinh lại tiếp tục con đường hồi hương. Khi đến biên cảnh của hai nước Mông-cổ, Thổ-phồn, đại hãn gặp một vụ săn qui mô và hào hứng do các tướng lãnh ở đây tổ chức. Mấy đứa cháu nội của ông liền tham gia. Hô-lô-Hổ, 11 tuổi, con của Đà-Lôi và Hốt-Tất-Liệt, 9 tuổi, lần thứ nhất hạ được con mồi, kiêu hãnh mang đến khoe với ông nội. Theo tục lệ cổ truyền phải tổ chức một buổi tế lễ, cho chúng nó lấy thịt và mỡ con thú chà xát lên ngón tay cái để lấy hên, sau này có đi săn chắc chắn sẽ hoạch lợi. Thành-Cát-Tư-Hãn cảm thấy một niềm vui bừng dậy trong lòng, đứng ra làm chủ tế cho mấy đứa cháu.
Hô-Lô-Hổ, vị chúa tương lai của miền Trung Á, siết mạnh tay của ông mình để thử sức. Đại hãn cả cười: "Các ngươi hãy xem, xem lũ cháu ta đang xâm chiếm cả hai tay ta". Nhưng Hốt-Tất-Liệt lại đưa tay ra với vẻ rất nghiêm chỉnh quyền uy. Đại hãn liền xoay qua phía các con bảo: "Khi nào chúng bây gặp việc nan giải, hãy hỏi Hốt-Tất-Liệt."
Chương XXI
TÁI CHIẾM TÂY-HẠ
Sử Trung-Hoa thuật rằng một cận quan của Thành-Cát Tư-Hãn có phận sự phải nhắc nhở ông nhớ hàng ngày vào buổi trưa và buổi chiều việc "đế quốc Tây-Hạ vẫn còn tồn tại bên cạnh đế quốc Mông-cổ". Ông quyết thực hiện cho kỳ được lời phát thệ trước khi đi đánh đế quốc Kharesm, phải đáp lại sự phản bội của chúa Tây-hạ bằng bất cứ giá nào.
Nhưng chúa Tây-hạ đã chết cùng một năm với Mộc-Hoa-Lê và hoàng đế Kim. Thái tử lên kế vị liền thu dụng tất cả người Trung-quốc chống Mông-cổ cùng tất cả bọn tàn quân Kim, Khiết-đan, lập thành một đạo binh hùng hậu tới 500.000 người.
Trong lúc Tây-hạ đang chiêu binh mãi mã, ở nước Kim những hoạt động chống Mông-cổ cũng sôi động trở lại. Cậy vào sông Hoàng-hà ở mặt Nam và những thành luỹ kiên cố trong các vùng núi hiểm ở mặt Tây, vua Kim lại tập hợp lực lượng quyết một trận sống chết.
Cũng theo sử Trung-hoa, trong 15 năm chống ngoại xâm và nội chiến, 18 triệu người đã chết ở đế quốc Kim và đế quốc Tây-hạ, tính ra gần một phần ba dân số. Vậy mà đế quốc Kim còn tiềm lực phát động một cuộc kháng chiến, hoặc hơn nữa, tấn công trở lại. Quân đội của họ tiến vào các tỉnh đã mất, đánh bại nhiều cánh quân Mông-cổ đóng lẻ tẻ rồi tổ chức lại quân trú phòng ở những thành do Mộc-Hoa-Lê chiếm.
Thành-Cát-Tư-Hãn liền rời Mông-cổ mở cuộc chinh phạt ở mạn Nam và mạn Tây. Ông dẫn hết đám con đám cháu cùng với 180 ngàn quân tiến phát. Nhân dịp này ông đưa ra một nguyên tắc cho mọi hoạt động trong tương lai: "Khi bắt tay vào một việc gì, dù gặp hoàn cảnh trắc trở như thế nào đi nữa, các ngươi phải cố gắng làm cho tới cùng. Đừng bao giờ chấm dứt cuộc chiến tranh khi kẻ thù chưa hoàn toàn bị tiêu diệt."
Hình như linh tính báo trước rằng chiến cuộc này là chiến cuộc cuối cùng của đời ông, có lẽ không còn sống để trở về đất tổ nên trước lúc khởi hành ông đã cho lập lại trật tự trong đế quốc, phân chia đoàn trại và quân đội, ban phát hãn địa cho các người con. Bát-Đô, con của Truật-Xích, lãnh hãn địa ở phía Bắc và phía Tây rặng núi Altal “tới nơi nào mà vó ngựa Mông-cổ còn tới được”. Sát-Hợp-Đài lãnh xứ Thổ-phồn và những miền ở phía Nam, phía Tây của xứ ấy; Tây-liêu, Kharesm. Oa-Khoát-Đài lãnh xứ Tây - hạ, đế quốc Kim và những xứ ở Đông – á. Đà Lôi lãnh phần đất tổ: xứ Mông-cổ và đại quân Mông-cổ.
Để cho đế quốc không vì thế mà chia xẻ làm nhiều mảnh, Thành-Cát-Tư-Hãn qui định trong Yassa như sau: "Con cháu của đại hãn dù đang ở nơi nào, hễ sau khi đại hãn băng hà, phải tụ họp về Mông-cổ mở Hội-đồng Quí tộc bầu cử một người có đầy đủ khả năng và uy tín lên thay thế. Tất cả đều phải ở dưới quyền lãnh đạo của đại hãn, ai lập người khác ngoài quyết định của Hội-đồng Quí tộc sẽ bị tử hình. ”
***
Quân Mông-cổ tràn vào đất Tây-hạ thế như nước vỡ bờ; họ chiếm hết những ngọn đồi bao quanh một cái hồ bên sông Hoàng-hà. Đại hãn sai một toán quân xạ tiễn ưu tú nhất bỏ ngựa đi trên mặt băng khiêu khích quân địch. Kị binh Tây-hạ liền cho ngựa phi như gió cuốn vào trận địa, không ngờ ngựa của họ trượt băng ngã nhoài ra hết, binh sĩ kẻ té sấp, người nhào ngửa mặc tình cho quân Mông-cổ bắn tên, phóng lao và dùng mã tấu chặt như chặt thịt trên thớt. Rồi đạo binh xạ tiễn này nhảy lên ngựa cùng với một đạo kị binh khác phi vòng theo bờ hồ tấn công một đoàn pháo binh tới tiếp viện. Gươm vung loang loáng một buổi, quân Tây-hạ bị giết sạch không sót một người nào.
Sau trận này quân Mông-cổ dựng lên ba cây trụ, ở mỗi trụ họ treo một cái xác địch thòng đầu xuống đất; như thế có nghĩa là họ đã giết 300.000 địch quân.
Bây giờ không còn lực lượng nào bảo vệ thành thị và nhân dân trên đất Tây-hạ nữa. Thành nào cũng bị quân Mông-cổ cướp sạch rồi đốt ra tro bụi. Một số ít dân chúng trốn vào các hang động, vào rừng sâu, trong một trăm người hoạ may sống sót được vài người. Đồng ruộng hoa màu đều bị ngựa dẫm hoặc bị đốt, nhà cửa gần như không còn cái nào nguyên vẹn. Vua Tây-hạ trốn về một cái thành kiên cố trong vùng núi hiểm mà cũng không khỏi bị hạ sát. Nhưng đệ tam vương tử vẫn kiên trì chống lại quân Mông - cổ; ông rút vào thành Ninh-hạ, đóng kín cửa chịu đựng,
Quân Mông - cổ vây hãm nhưng vô hiệu quả vì hào thành quá sâu rộng, không tài nào lấp được. Tất cả các loại máy của pháo binh đều hết hiệu nghiệm trước những bức tường sừng sững như vách núi. Thấy việc hạ thành còn lâu dài, Thành-Cát-Tư-Hãn để lại một đạo quân giữ chặt bốn cửa, giao cho Oa-Khoát-Đài một đạo quân tiến đánh nước Kim, đạo thứ ba tiến vào các nước phiên thuộc của Tây-hạ. Phần ông dẫn một đạo đi càn quét suốt đế quốc Kim đến tận chỗ ba ranh giới giao nhau (Tây-hạ, Kim và Nam-tống). Đường liên lạc giữa hai nước Trung-quốc và Tây-hạ bị cắt đứt khiến cho dân Tây-hạ tuyệt vọng, hết can đảm chiến đấu nữa. Hoàng đế Kim liền gửi sứ giả đến xin nghị hoà, dâng cho Thành-Cát-Tư-Hãn một cái bình đựng toàn là những loại ngọc vô giá của hoàng cung.
Đại hãn đã quá chán cái lối đem tặng phẩm tới xin nghị hoà hôm trước để hôm sau phản bội, liền sai quân đem ngọc vãi tung toé ở mặt trước viên môn cho quân túc vệ ai muốn nhặt tha hồ đến nhặt.
Nối theo sứ giả Kim là sứ giả của vương tử Tây-hạ đến xin dâng thành Ninh-hạ, tâu rằng:
- Nếu đại hãn xá tội, vương tử sẽ đích thân đến bái kiến.
Thành-Cát-Tư-Hãn lặng yên suy nghĩ một lúc lâu rồi mới đáp:
- Ta hứa bỏ qua chuyện cũ.
Chương XXII
CỖ XE TANG VỀ ĐỈNH NÚI THIÊNG
Thành- Cát- Tư – Hãn bắt đầu thấy mệt mỏi vì những ám ảnh nặng nề của tuổi già. Ông thường hay nói: “Thần Chết đã chờ trước ngưỡng cửa để rước ta”. Một hôm ông cho gọi tất cả đám con cháu về và phán rằng: “Nhờ ơn Trời giúp sức, ta đã gây dựng cho chúng bây một đế quốc rộng lớn, từ trung tâm phi ngựa về phía đông hoặc phía tây suốt môt năm cũng chưa tới biên giới. Ta chỉ tiếc đời ta quá ngắn ngủi không kịp hoàn thành cuộc chinh phục thế giới. Nhiệm vụ của chúng bây là tiếp tục công cuộc ấy. Phải đồng tâm nhất trí để thắng kẻ thù và để có thể sống lâu dài, hạnh phúc”. Ông thuật một chuyện ngụ ngôn:
“Thuở xưa có hai con rắn: một con có nhiều đầu nhưng chỉ có một cái đuôi, và một con chỉ có một đầu nhưng có nhiều đuôi. Đến mùa đông giá lạnh, chúng nó tìm được một cái hang để trú ẩn. Cửa hang quá nhỏ hẹp, khiến con rắn nhiều đầu không thể chun xuống được. Mấy cái đầu của nó cứ tranh nhau, gây gổ với nhau, sau cùng nó tìm được nhiều cửa hang rồi mỗi đầu chun xuống một cửa, nhưng cái đuôi làm sao xuống được? Rắn đành chịu chết! Còn con rắn một đầu thì chui xuống hang dễ dàng với tất cả đuôi qua được mùa đông.
Rồi với giọng nghiêm khắc đại hãn kết luận: “Chỉ một đứa trong các con sẽ lên nối ngôi đại hãn của ta.”
Nhìn một lượt qua các vương tử ông nói tiếp: “Đứa nào trong chúng bây có thể cầm đầu đế quốc của ta?”
Các vương tử liền một loạt quì xuống xin phụ vương hãy quyết định, họ nguyện triệt để tuân theo. Thành – Cát – Tư – Hãn nhìn từng người một thật lâu rồi quyết định: “Oa – Khoát – Đài hãy nối ngôi ta.”
Các vương tử thật sự không có người nào có cái thiên tài và những đức tính như ông, tài dùng người, tài thao lược, với ý chí sắt đá và lòng kiên nhẫn vô biên... Chỉ còn cách là chọn người nào có được một vài đức tính thiết yếu mà thôi. Sát – Hợp – Đài thì tính khắc nghiệt, đa sát; Đà – Lôi có tài thao lược, giàu nghị lực nhưng thiếu nhiều đức tính lãnh đạo; Oa – Khoát – Đài được giao ngôi báu chỉ vì đệ tam vương tử “biết nghe lời khuyên của kẻ khác, biết dùng người theo khả năng, biết chinh phục lòng những kẻ dưới tay, biết dàn xếp nội bộ” mặc dù đệ tam vương tử hơi kém nghị lực, chỉ có cái tật hay say sưa mà vẫn không chừa được.
Thành Cát Tư Hãn nghĩ xa trong tương lai và nhằm một mục đích rõ rệt nên không cần ý chí sắt đá và tài thao lược. Ông đặt thuật dùng người và lòng khoan dung lên trên tất cả các đức tính khác của người lãnh đạo.
Sau khi quyết định, ông hỏi Oa – Khoát – Đài có điều gì muốn nói không. Vương tử tâu rằng:
- Thưa phụ vương, phụ vương đã cho phép con mới dám nói; con đâu dám từ chối ngôi báu của phụ vương đã giao, và nguyện sẽ cố gắng cai trị đế quốc một cách khôn khéo, tài ba. Nhưng chỉ sợ sau nầy đám con của con không đủ sức để gìn giữ ngôi báu nữa. Đó là điều con muốn nói.
- Nếu con hoặc cháu của mầy không đủ tài đức thì hãy chọn đứa nào xứng đáng trong hàng cháu của ta lên kế vị.
Thực ra trong thâm tâm Thành Cát Tư Hãn không muốn để cho Oa – Khoát – Đài lập một dòng đại hãn riêng nên đã qui định sẵn một thể thức ghi trong Yassa để hội đồng quí tộc chiếu theo đó mà thi hành. Ngoài ra lại giao cho Đà – Lôi quyền giám sát đế quốc…
Mọi sự sắp đặt đã chu đáo như vậy mà Thành Cát Tư Hãn vẫn chưa yên tâm, lòng vẫn canh cánh lo sợ mối chia rẽ xảy ra giữa đám con cháu. Trong cơn hấp hối, ông còn ráng giảng thêm một lần nữa bài học đoàn kết và tương trợ. Với lấy túi tên, ông rút ra đưa cho mấy người con cháu mỗi người một mũi, bảo họ thử bẻ gãy mũi tên trên tay …
- Chúng bây có thấy chưa, nếu hành động riêng lẻ, số phận của chúng bây sẽ như những mũi tên nầy! Chúng bây sẽ bị kẻ thù khinh rẻ, chà đạp và cướp đoạt!
Xong rồi ông đưa nguyên bó tên bảo họ lần lượt thử bẻ gãy như hồi nãy nhưng không một ai bẻ nổi. Bây giờ ông mới nghiêm giọng nói:
- Đó là hình ảnh của sự đoàn kết chặt chẽ giữa chúng bây; đừng trông cậy vào kẻ khác, nhất là đừng nghe kẻ thù, hãy giúp đỡ nhau, bao bọc nhau trong mỗi cảnh ngộ ở đời; phải triệt để tuân hành luật Yassa và bất cứ làm việc gì hãy làm cho tới cùng! Ta nhắc lại chỉ có đoàn kết và tương trợ lẫn nhau, chúng bây mới giữ nổi đế quốc của ta … Bây giờ chúng bây hãy trở về quân đội đi!
Đại hãn sai Oa – khoát – đài qua nước Kim, Sát – hợp – đài qua phương Tây, Bạt – Đô về Mông – Cổ …
Nhưng cho đến phút cuối cùng, Thành Cát Tư Hãn vẫn không trút được gánh lo âu về nước Kim. Trên chiếc giường chờ đợi Tử thần, ông thảo cho Đà – Lôi một kế hoạch đập tan lực lượng của nước Kim, kẻ thù muôn thưở của dân du mục:
Tinh binh của nước Kim đều đóng ở miến tây; trên bắc có sông Hoàng hà chắn ngang, dưới Nam có núi cao che chở, ta không thể nào thắng họ ở đó được. Nhưng nước Tống lúc nào cũng chực diệt Kim, sẽ cho quân ta mượn đường tiến đến vùng bình nguyên phía Đông. Từ đó quân ta tiến thẳng tới vây hãm Khai – phong. Tất nhiên hoàng Kim sẽ gửi tinh binh đóng ở miền Tây về tiếp ứng giữ kinh sư. Họ phải trẩy quân đi ngàn dặm mới tới Khai phong, người ngựa đều mệt, bấy giờ quân ta đổ ra đánh tất sẽ diệt được!
Trước giờ chết đại hãn còn ra một lịnh cuối cùng: phải giấu kín tin ta chết và khi thái tử Tây-hạ đến bái kiến, phải giết đi luôn cả bọn tùy tùng. Tất cả hàng quý tộc và cận tướng phải về Mông-cổ, bấy giờ mới được phát tang (I8 tháng 8 năm 1227).
Quân Mông-cổ triệt thoát ra khỏi Tây-hạ, lục tục kéo về nước. Trên đường hồi hương họ ca hát cười đùa như không có việc gì xảy ra, chỉ có khác là ngựa phi mau hơn lệ thường. Các binh đoàn ở xa như Khâm-sát, Nãi-man, Liêu-đông cũng kéo về, có vẻ gấp rút hơn, nhưng theo lịnh của bộ Tổng tham mưu phải trẩy đi như ra chiến trường.
Lúc sau nầy, trước viên môn của đại hãn bao giờ cũng có một cây giáo cắm mũi xuống đất báo hiệu vị Chúa tể đang lâm bịnh nặng. Không một ai được phép vào, trừ các vương tử, cận tướng và quân sư Chu-Thai. Quân túc vệ gác ngày đêm cực kỳ nghiêm ngặt, kín như một vòng tường sắt. Chỉ có một lần cửa hé ra cho bọn thái tử Tây-hạ vào, nhưng ít phút sau họ chỉ còn là những cái xác đậy kín khiêng trở ra hấp tấp. Lần lượt tất cả lều trại trong khu vực Đại bản doanh đều được hạ xuống xếp lại, sau rốt tới viên môn của đại hãn. Ở bốn phía, quân các trại cũng thu xếp lên đường, cuối cùng mới đến quân túc vệ. Họ án khắp bốn phía chiếc xe chở quan tài của đại hãn thành một vòng nhân tường dày đặc, khiến cho những cặp mắt tò mò đến đâu cũng không thấy được. Cỗ xe tang tiến đến đâu thì những kẻ lảng vảng ở trên đường hay ở trong những xóm nhà lân cận đều bị hạ sát không sót một người; trên suốt con đường, chiếc xe tang thầm lặng để lại phía sau toàn là thây người ngổn ngang. Tất cả các giống sinh vật từ người đến thú, chim, rắn...hễ vô phúc lọt vào tầm mắt của quân túc vệ là bị đuổi theo đến kỳ cùng. Cứ như thế cỗ xe tang vượt qua núi đồi, qua sông hồ, qua rừng rậm, qua sa mạc.
Chỉ một lần cái im lặng tang tóc bị cắt đứt lúc bốn bánh xe lún xuống đất sét xanh, ngựa khỏe nhất cũng không làm sao kéo lên được. Thân vương Gia-Ganh, viên tướng chỉ huy túc vệ phải cất cao giọng hát lên: ”Hỡi đại hãn, Chúa tể của dân Mông-cổ! Ngài nỡ nào để cho nhân dân xôn xao và đâu lẽ ngài lại muốn nằm giữa chốn hoang vu này! Thần dân của Ngài đang chờ đợi ngài ở quê nhà, nơi ngài đã chào đời. Bà Bật-tê, người vợ yêu quý của ngài, nàng Cúc-lan xinh đẹp, chiếc ngai vàng và viên môn kim tuyến đều ở quê nhà! Nơi này cát nóng như rang vùi dập quá nhiều xác quân thù, xin ngài hãy về nằm bên cạnh thần dân của ngài... Nếu chúng tôi không còn cái vinh dự làm tường đồng che chở cho ngài nữa, chúng tôi cũng nguyền đưa di thể tựa châu ngọc của ngài về quê hương mới mong thỏa mãn được nguyện vọng của toàn dân.”
Hình như lời khẩn cầu của thân vương được chấp thuận, bánh xe tang lăn qua khỏi vũng lầy tiếp tục con đường về.
Đến biên giới Mông-cổ đoàn hộ tang gặp một rừng người ra đón rước, họ khóc kể vang dậy đất trời; trong số ấy có 5 bà hậu với đám con, 500 vương phi và cung tần, những thượng tướng, những nhà quý tộc... Họ hát những khúc ai ca não nuột, giọng ngân dài trầm trầm trong lúc tiến về Délegune Boldok trên nguồn sông Onon. Đến đây linh cữu được dời qua một cỗ xe tang khác và chỉ một số người chọn lựa được tiễn đưa đoạn đường cuối cùng đến núi Bourkhane Kaldoun.
Trên đỉnh núi này xưa kia có một lần đi săn, đại hãn ngồi nghỉ dưới một gốc cây cổ thụ, trầm ngâm suốt cả ngày. Khi bọn tùy tùng đến đại hãn nói: ”Ta ưng chọn nơi này làm nơi yên nghỉ cuối cùng của ta, các ngươi hãy ghi nhớ”.
Cho nên họ mới chôn Thành Cát Tư Hãn ở bên gốc cổ thụ ấy.
Họ dựng chung quanh ngôi mộ 8 cái lều màu trắng để làm nơi thờ phụng và cắt 1000 quân túc vệ đóng trại ở chung quanh chân núi làm một hàng rào danh dự. Sau này trên đỉnh núi ấy còn thêm nhiều ngôi mộ nữa, đó là mộ của Đà-Lôi, Oa Khoát-Đài, Sát-Hợp-Đài, Mông-Kha và Hốt-Tất-Liệt. Mấy trăm năm sau một rừng cây mọc lên dày đặc trở thành một khu rừng thiêng, không ai dám bén mảng tới nữa khiến cho ngày nay không ai biết những ngôi mộ ấy ở nơi nào. Nhiều nhà khảo cổ đã phí công tìm tòi mà vẫn không gặp được mộ của Thành-Cát-Tư-Hãn. Họ biết rõ vùng núi Délegune Boldok, nhưng không biết đỉnh nào là đỉnh Bourkhane Kaldoun.
Di tích của nhà chinh phục vĩ đại nhất thế giới hiện chỉ còn một bộ đồ sô gai ở viện bảo tàng Bắc-kinh.
HẾT
No comments:
Post a Comment