DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
UBND
|
Uỷ
ban nhân dân
|
CQHCNN
|
Cơ
quan hành chính nhà nước
|
BMHCNN
|
Bộ
máy hành chính nhà nước
|
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận quan trọng cấu thành nên bộ máy
nhà nước được thành lập theo Hiến pháp và pháp luật để thực hiện quyền lực nhà
nước có chức năng quản lí hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Kể từ khi đất nước ta bước vào thời kì đổi mới đến nay bộ máy hành
chính nhà nước đã có rất nhiều cải cách tiên bộ nhằm làm cho bộ máy hoạt động
hiệu quả hơn và bước đầu đã có những sự chuyển biến tích cực trên tất cả các
mặt, tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực thì bộ máy hành chính nhà nước vẫn
còn tồn tại những khó khăn khuyết điểm cần phải được giải quyết trong thời gian
tới bài viết của chúng tôi với mong muốn đem lại cho người đọc một cái nhìn
tổng quát về thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước hiện nay qua đó
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước trong thời gian tới. Trong quá trình hoàn thành bài viết vẫn còn
nhiều thiếu xót, khó khăn rất mong được sự đóng
góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn.
2. Mục đích nghiên cứu :
Hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà
nước là kết quả cuối cùng của hoạt động quản lý xã hội, là quá trình thực hiện Hiếp
Pháp và pháp luật. Nếu hệ thống cơ quan hành chính nhà nước hoạt động kém hiệu quả
sẽ tạo ra sự ách tắc trong quả lý xã hội, các chi phí cho quản lý xã hội của hệ
thống cơ quan hành pháp nhiều nhưng kết quả thu lại không cao làm chậm sự phát triển
đi lên của xã hội, làm ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân, làm mất lòng tin
của nhân dân đối với nhà nước.
Đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ thực trạng hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước.
3. Tình hình nghiên cứu
Mục tiêu chung của chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010(ban hành theo quyết định số 136/2001/QĐ-Ttg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ) và
nghị quuyết 30c/ NQ-CP ban hành chương trình tổng
thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010-2020 là xây dựng một nền hành chính dân chủ , trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động theo nguyên tắc của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng xây dựng đội ngũ cán
bộ công chức có phẩm chất năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vấn đề về bộ máy
hành chính nhà nước hiện nay cũng đã có một số bài viết nhưng chỉ dừng lại ở
một góc độ nào đó như bài viết giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước mà chưa nêu lên tình hình hoạt động bài viết của
chúng tôi sẽ đề cập đến vấn đề thực trạng hoạt động và giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
4.Phạm vi nghiêncứu :
Phạm vi nghiên cứu
nằm trong bộ máy hành chính nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm
Chính phủ; các bộ, cơ quan ngang bộ; và Uỷ ban nhân dân các cấp.
5.Phương pháp nghiên cứu :
Để hoàn thành bài
viết này chúng tôi đã sử dụng các phương pháp như
phương
pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp lịch sử, phương pháp thống
kê kết hợp với các bài giảng của giáo viên.
6 .Kết cấu đề tài :
Đề tài gồm 3 chương
Chương
1: Cơ sở lý luận.
Chương
2: Thực trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước hiện nay.
Chương 3: Giải pháp
nâng cao hiệu quả hoạt động bộ máy nhà nước
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
Bộ máy hành chính nhà nước được hình thành từ nhiều cơ quan nhà nước từ
trung ương xuống địa phương, có cơ cấu tổ chức phức tạp, phong phú và đa dạng,
mỗi cơ quan đều có vị trí, vai trò, chức năng
và nhiệm vụ riêng nhưng chúng hợp thành một thể thống nhất, tổ chức và
hoạt động theo những nguyên tắc chung và nhằm đạt được những mục tiêu thống
nhất đặt ra trước nhà nước.
1.Khái niệm về bộ máy hành chính nhà nước
Bộ máy hành
chính nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước có tư cách pháp nhân công quyền
do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp lập ra nhằm quản lí công việc hằng ngày
của xã hội, cung cấp dịch vụ thông qua hoạt động công sở.
2. Đặc điểm
2.1. Đặc điểm chung
BMHCNN là một bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước được
thành lập theo hiến pháp và pháp luật, để thực hiện quyền lực nhà nước, có chức
năng quản lý hành chính nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do vậy BMHCNN cũng mang các đặc điểm chung của bộ máy nhà nước, đó là:
Thứ nhất, bộ máy hành chính nhà nước hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước, được tổ chức và hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân
chủ. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ, bộ máy hành chính nhà nước nhân danh
nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực thi quyền quản lý
hành chính nhà nước. Chính những biện pháp này là sự thể hiện tập trung và rõ
nét của sức mạnh nhà nước, một bộ phận tạo nên quyền lực nhà nước.
Hai là, cũng như bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước
mang tính chỉnh thể. Tính chỉnh thể được thể hiện: bộ máy hành chính nhà nước
là hệ thống các cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ, thống nhất, thành lập từ trung
ương đến địa phương, được tổ chức theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật
thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt động nhằm thực thi quyền quản lý hành
chính nhà nước.
Ba là, bộ máy hành chính nhà nước thể hiện tính lợi ích,
thông qua chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền để bảo vệ, duy trì các lợi ích (lợi
ích dân tộc, quốc gia, giai cấp...)
2.2.
Đặc điểm riêng
Một là, xem xét BMHC là gắn với tổ chức, với lý thuyết về tổ
chức.Tức xem là một thực thể tồn tại trong một môi trường nhất định, chia thành
các bộ phận,có
cơ cấu thứ bậc chặt chẽ, hợp lý, có mục tiêu chung, có cơ chế thông tin và phối hợp, có quan hệ giao tiếp. Có văn hóa tổ chức, được mô tả
như một tập hợp chung các thông lệ, hệ thống giá trị, quy chuẩn hành vi ứng xử
và cách kinh doanh riêng của từng tổ chức. Những mặt này sẽ quy định mô hình
hoạt động riêng của từng tổ chức và cách ứng xử của các thành viên trong tổ
chức. Có các mô hình văn hóa tổ chức, văn hóa tổ chức quyền lực mang tính áp đặt, cưỡng chế nhiều
hơn văn hóa tổ chức
nhiệm vụ là việc hoàn thành nhiệm vụ được giao, đây là sự phân công, phân nhiệm, văn hóa tổ chức gương mẫu là mọi
người gương mẫu thực hiện, từ lãnh đạo đến từng thành viên tổ chức, văn hóa tổ chức khuyến khích chấp nhận
rủi ro trong công việc, văn hóa đề cao vai trò cá nhân, văn hóa đề cao vai trò tập thể.
Hai là, bộ máy hành chính nhà nước thực hiện chức năng chấp
hành và điều hành (quyền hành pháp); đây là phương diện hoạt động chủ yếu của
bộ máy hành chính nhà nước. Chức năng chấp hành có nghĩa là bộ máy hành chính
nhà nước chỉ tiến hành các hoạt động để chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị
quyết của cơ quan quyền lực nhà nước. Chức năng điều hành được thể hiện trong
việc bộ máy hành chính nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật trong
đời sống xã hội. Trong quá trình đó, bộ máy hành chính không chỉ tự mình thực
hiện pháp luật mà quan trọng hơn cả là đảm nhận chức năng chỉ đạo, vận hành
hoạt động của các cơ quan, đơn vị trực thuộc theo một quy trình thống nhất; tổ
chức để mọi đối tượng có liên quan thực hiện pháp luật nhằm hiện thực hóa các
quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ quản lý. Chức năng chấp hành và
điều hành trong bộ máy hành chính nhà nước luôn đan xen, song song tồn tại, tạo
nên sự đặc thù của hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nhờ đó có thể phân
biệt với hoạt động lập pháp và tư pháp.
Thứ ba, bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thống nhất,
do cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp lập ra theo nguyên tắc “song trùng trực
thuộc”. Bộ máy hành chính nhà nước được tổ chức thành một khối thống nhất từ
Trung ương tới địa phương, đứng đầu là Chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ
máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo
đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng
hợp của cả bộ máy, tránh được sự cục bộ phân hóa giữa các địa phương hay vùng miền
khác nhau. Tuy nhiên. do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều
kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa những yếu tố của từng địa
phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy hành chính
còn được tổ chức theo hướng phân cấp cho chính quyền địa phương. Để cùng lúc
đạt được hai mục đích này, nguyên tắc “song trùng trực thuộc” được sử dụng như
một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Theo đó,
loại trừ Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước thì mỗi cơ
quan khác trong bộ máy này đều lệ thuộc vào hai cơ quan: một cơ quan theo chiều
dọc (cơ quan hành chính cấp trên) để đảm bảo sự thống nhất của bộ máy; một cơ
quan theo chiều ngang (cơ quan quyền lực cùng cấp) để đảm bảo sự chủ động của
mỗi cấp quản lý. Việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước thống nhất theo nguyên
tắc “song trùng trực thuộc” thể hiện sự hợp lý về thẩm quyền của mỗi cấp quản
lý, vừa bảo đảm sự điều hành xuyên suốt, thống nhất trong bộ máy, vừa tạo ra được
sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý.
Bốn là, BMHCNN là bộ phận rất phức tạp nhưng phát triển nhất
trong bộ máy nhà nước. Mỗi cơ quan trong bộ máy hành chính nhà nước hoạt động
dựa trên những quy định của pháp luật, có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất
định và có những mối quan hệ phối hợp trong thực thi công việc được giao, đó là
mối quan hệ trực thuộc trên-dưới, trực thuộc ngang-dọc...Bộ máy hành chính nhà
nước hoạt động thường xuyên, liên tục, hằng ngày nhằm mục tiêu đưa quan điểm,
chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước vào cuộc sống của công dân và tổ
chức đáp ứng sự vận động không ngừng của đời sống xã hội. Chính điểm đặc thù
này được coi là một cơ sở quan trọng trong việc xác lập quy định về tổ chức và
hoạt động, quy chế công chức, công vụ của bộ máy hành chính nhà nước.
3. Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước hiện nay
Cơ cấu tổ chức của BMHCNN hiện nay gồm có:
+ Chính phủ
+ Các bộ, cơ quan
ngang bộ
Theo
nhiệm kì của Quốc hội khóa XIII nhiệm kì 2013- 2017 nước ta 18 Bộ bao gồm:
Bộ
Công an,
Bộ
Công thương,
Bộ
Giáo dục và Đào tạo,
Bộ
Giao thông vận tải,
Bộ
Kế hoạch và đầu tư,
Bộ
Khoa học và Công nghệ,
Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ
Ngoại giao,
Bộ
Nội vụ,
Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Bộ
Quốc phòng,
Bộ
Tài chính,
Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ
Thông tin và Truyền thông,
Bộ
Tư pháp,
Bộ
Văn hóa - Thể thao và du lịch,
Bộ
Xây dựng,
Bộ
Y tế.
Và
4 cơ quan ngang bộ bao gồm:
Ngân
hàng Nhà nước,
Thanh
tra Chính phủ,
Ủy
ban dân tộc,
Văn
phòng Chính phủ.
Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện , ủy ban nhân dân cấp xã: hiện nay nước ta
có 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương(gọi chung là cấp tỉnh) tương đương
với 63 UBND cấp tỉnh:
+ Có 703 huyện,
quận, thị xã , thành phố trực thuộc tỉnh( gọi chung là cấp tỉnh) tương đương
với 703 UBND huyện
+ Có 11480 xã, hường
, thị trấn (gọi chung là cấ xã) tương đương với 11480 UBND xã
4. Chức năng của bộ máy hành chính nhà nước
4.1. Chính phủ
Theo quy định tại
điều 94 hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 thì Chính phủ là
CQHCNN cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội
Chức năng của Chính phủ được quy định tại điều 1 luật tổ chức
Chính phủ 2001 đó là: “Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo
đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn
trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân.”
4.2. Các bộ và cơ quan ngang bộ
Bộ, cơ quan ngang
bộ là cơ quan của Chính phủ có chức năng chủ yếu là quản lí nhà nước về ngành
hoặc lĩnh vực chuyên môn. Theo quy định tại điều 22 luật tổ chức Chính phủ 2001
thì “Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước đối với ngành hoặc lĩnh vực công tác trong phạm vi cả nước; quản lý
nhà nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu
phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp có vốn nhà nước theo quy định của pháp
luật.”
4.3 Chức năng của UBND các cấp
Tại điều 2 luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm
2003 quy định chức
năng của UBND như sau ”Uỷ ban nhân dân do Hội đồng
nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan
nhà nước cấp trên.
Uỷ ban
nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp nhằm bảo đảm
thực hiện chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc
phòng, an ninh và thực hiện các chính sách khác trên địa bàn”.
4.3.1 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
UBND tỉnh là cơ
quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung ở địa phương thực hiện chức năng
quản lí hành chính nhà nước theo lãnh thổ địa giới hành chính tỉnh đối với mọi
ngành, mọi lĩnh vực thuộc địa hương mình , bảo đảm việc thi hành văn bản pháp luật của cơ
quan hành chính nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân dân cấp tỉnh , giám sát việc thi hành pháp luật của các
đơn vị cơ sở của các cơ quan hành chính nhà nước đóng tại địa phương trong phạm vi vấn đề thuộc quyền quản lí
lãnh thổ.
4.3.2 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp huyện
UBND cấp huyện
có chức năng quản lí hành chính nhà nước trên mọi lĩnh vực trong phạm vi lãnh thổ huyện nhằm triển khi
thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân dân cấp
huyện.
4.3.3 Chức năng của ủy ban nhân dân cấp xã
UBND cấp xã có
chức năng quản lí hành chính nhà nước chung trong phạm vi cấp xã bảo đảm thi
hành văn bản luật của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên và của hội đồng nhân
dân cấp xã.
Như vậy về cơ bản UBND các cấp thực hiện chức
năng giống như Chính phủ tuy nhiên nó khác với Chính phủ ở phạm vi và hiệu lực.
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI đề ra như sau: “Nâng cao
hiệu lực quản lý của Nhà nước. Nêu cao vị trí và vai trò của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp, tào điều kiện cho các cơ quan dân cử thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn theo Hiến pháp quy định. Tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa và quản lý xã hội bằng pháp luật. Phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của cơ quan nhà nước từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân
chủ, phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế với quản lý sản xuất -
kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh
thổ. Chấn chỉnh bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh, gọn, có đủ năng lực
thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật, chính sách cụ thể;
xây dựng và tổ chức thực hiện các kế hoạch nhà nước; quản lý và điều hành có
hiệu quả các hoạt động kinh tế; xã hội; giữ vững pháp luật, kỷ cương và trật
tự, an toàn xã hội.”
Như vậy đại hội đã đề ra yêu cầu khách
quan cấp bách là phải đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước , để xác
định được nội dung đổi mới tổ chức của bộ máy nhà nước đáp ứng yêu cầu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa hội nhập
kinh tế với nước ngoài thì trước hết chúng ta phải đôi mới nền hành chính quốc
gia. Đây là nội dung hết sức quan trọng trong nghị quyết của Dảng từ Đại hội
đảng lần thứ VI đến đại hội đảng lần thứ X được đưa ra và xem đây là kim chỉ
nam cho các cơ quan nha nước trong tiến trình đổi mới nội dung này cũng được
xem là một trong năm chủ trương lớn của đảng trong quá trình lãnh đạo nhà nước
và xã hội. Nội dung của cải cách hành chính bao gồm, cải cách thể chế hành
chính , cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, xây dựng và nâng cao đội
ngũ các cán bộ công chức viên chức , cải
cách nền tài chính công
2.1 Những thành tựu đã đạt được
Cải cách bộ máy
hành chính là khâu quan trọng trong cải cách nền hành chính quốc gia , trong
thời gian qua chúng ta đã đạt dược một số thành tựu quan trọng trong cải cách
như :
-Bước đầu đã có sự phân biệt giữa quản
lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh doanh
-Cơ cấu bộ máy cơ quan hành chính nhà
nước bắt đầu tinh giảm trên cơ sở sát nhập một số cơ quan hành chính nhà nước
có thẩm quyền chuyên môn ở trung ương và địa hương
+.Về cơ cấu ở trung ương
Cải cách tổ chức bộ máy Chính phủ
Trên cơ sở rà soát,
điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ để sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ theo mục
tiêu, yêu cầu cải cách hành chính. Trong 10 năm qua, cơ cấu tổ chức Chính phủ
đã được tiến hành sắp xếp, kiện toàn vào các năm 2002 và 2007 tương ứng với cơ
cấu tổ chức Chính phủ khóa XI (2002-2007) và cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII
(2007-2011).
Cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XI
Trên cơ sở kế thừa
cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X việc sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức Chính
phủ khóa XI đảm bảo tinh gọn, hợp lý hơn; giảm đầu mối các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ đến mức cần thiết, cụ thể như:
Thời điểm năm
2001, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa X có 48 cơ quan (trong đó có 23 bộ, cơ quan
ngang bộ và 25 cơ quan thuộc Chính phủ). Chính phủ có 31 thành viên bao gồm Thủ
tướng Chính phủ, 05 Phó Thủ tướng Chính phủ, 23 thành viên Chính phủ là Bộ
trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ và hai Bộ trưởng được phân công phụ
trách cơ quan thuộc Chính phủ. Sau khi sắp xếp, kiện toàn lại các bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XI (2002-2007)
bao gồm:
Tổ chức bộ máy
Chính phủ: tổng số có 37 cơ quan, trong đó có 26 bộ, cơ quan ngang bộ và 11 cơ
quan thuộc Chính phủ (so với Chính phủ khoá X giảm được 11 đầu mối; trong đó,
tăng 03 bộ, cơ quan ngang bộ, chủ yếu trên cơ sở hợp nhất, tổ chức lại các cơ
quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước do vậy đã giảm được 14 cơ
quan thuộc Chính phủ).
Thành viên Chính
phủ có 30 thành viên, bao gồm: Thủ tướng Chính phủ, 03 Phó Thủ tướng Chính phủ,
26 thành viên Chính phủ là Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ (so với
Chính phủ khoá X có 31 thành viên Chính phủ giảm 01 thành viên). Đây là nhiệm
kỳ Chính phủ có số lượng Phó Thủ tướng tinh gọn nhất, nhưng vận hành, điều hành
công việc vẫn trôi chảy, có hiệu quả.
* Điểm nhấn mạnh
về sắp xếp, kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ,cơ quan thuộc Chính phủ mang
tính cải cách như sau:
Thành lập Bộ Tài
nguyên và Môi trường trên cơ sở tổ chức lại Tổng cục Địa chính, Tổng cục Khí
tượng thuỷ văn và điều chuyển chức năng quản lý về môi trường từ Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường sang Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý; điều chuyển
chức năng quản lý về tài nguyên nước từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
điều chuyển chức năng và tổ chức quản lý nhà nước về địa chất và khoáng sản từ
Bộ Công nghiệp sang Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý.
Thành lập Bộ Bưu
chính, Viễn thông trên cơ sở nâng cấp và tổ chức lại Tổng cục Bưu điện; điều
chuyển chức năng quản lý về công nghệ thông tin từ Bộ Khoa học, Công nghệ và
Môi trường sang Bộ Bưu chính, Viễn thông quản lý.
Thành lập Uỷ ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em trên cơ sở hợp nhất và tổ chức lại Uỷ ban Quốc gia
Dân số và Kế hoạch hoá gia đình, Uỷ ban Chăm sóc và Bảo vệ trẻ em Việt Nam;
giao thêm chức năng quản lý nhà nước về gia đình cho Uỷ ban này quản lý để tạo
sự liên thông giữa các lĩnh vực nêu trên vào một cơ quan của Chính phủ thực
hiện và chịu trách nhiệm.
Đổi tên Ban Tổ
chức - Cán bộ Chính phủ thành Bộ Nội vụ; chuyển Học viện Hành chính Quốc gia
vào Bộ Nội vụ quản lý.
Đổi tên Bộ Khoa
học, Công nghệ và Môi trường thành Bộ Khoa học và Công nghệ (sau khi chuyển
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi trường sang Bộ Tài nguyên và Môi
trường quản lý).
Đổi
tên Uỷ ban Dân tộc và Miền núi thành Uỷ ban Dân tộc (chuyển chức năng quản lý
về miền núi cho các bộ có liên quan thực hiện).
.Cơ cấu tổ chức Chính phủ khoá XII
(2007-2011)
Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách hành chính theo tinh
thần Nghị quyết Trung ương IV khóa X về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống, tham nhũng lãng
phí; Nghị quyết Trung ương 5 khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước và triển khai kế hoạch cải cách
hành chính năm 2010, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII tiếp tục được kiện toàn
trên cơ sở rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, khắc phục sự chồng chéo
hoặc bỏ trống để hình thành các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô
được mở rộng hợp lý hơn; giảm đáng kể đầu mối tổ chức đến mức cần thiết, phù
hợp với yêu cầu đổi mới chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ trong tình
hình mới.
Theo đó, cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII có 30 cơ
quan, trong đó có 22 bộ, cơ quan ngang bộ và 08 cơ quan thuộc Chính phủ (so với
Chính phủ khoá XI giảm được 07 đầu mối; trong đó, giảm 04 bộ, cơ quan ngang
bộ).
Thành viên Chính phủ có 27 thành viên, bao gồm: Thủ tướng
Chính phủ, 05 Phó Thủ tướng Chính phủ, 21 thành viên Chính phủ là Bộ trưởng và
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (có 01 Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao;
so với Chính phủ khoá XI có 30 thành viên Chính phủ, đã giảm 03 thành viên).
Như vậy Trọng tâm cải cách cơ cấu tổ chức Chính phủ
khóa XI chủ yếu tập trung vào sắp xếp các cơ quan thuộc Chính phủ theo hai
hướng:
Hợp nhất các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản
lý nhà nước để hình thành bộ hoặc cơ quan ngang bộ nhằm bước đầu thu gọn đầu
mối quản lý, sau này làm cơ sở cho việc tiếp tục sắp xếp, kiện toàn trong các
nhiệm kỳ Chính phủ theo mục tiêu dài hạn hơn.
Sáp nhập các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản
lý nhà nước vào các bộ quản lý ngành tương ứng, để hình thành bộ quản lý
đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô mở rộng hơn, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với từng ngành, lĩnh vực trong mối quan hệ đa ngành, đa lĩnh vực.
Cơ cấu tổ chức Chính phủ khóa XII có bước cải cách căn
bản hơn trong việc sắp xếp kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; đặc biệt là chuyển đổi không còn các cơ quan thuộc Chính phủ có chức
năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực. Khái quát chung, về cơ cấu tổ chức
Chính phủ khóa XII như sau:
Sắp xếp, kiện toàn các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ theo mô hình quản lý đa ngành, đa lĩnh vực với quy mô ngày càng
được hoàn thiện hợp lý hơn. Vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là theo mục tiêu, quan
điểm cải cách nếu tổ chức nào cần thiết phải có thì vẫn thành lập, nhưng tổ
chức nào xét thấy không cần thiết thì kiên quyết điều chỉnh chức năng và sáp
nhập hoặc giải thể tổ chức. Trên cơ sở đó đã tiến hành sắp xếp, kiện toàn tổ
chức bộ máy thông qua các hình thức sau:
Hợp nhất, sáp nhập, tổ chức lại và giải thể một số bộ,
cơ quan ngang bộ có chức năng, nhiệm vụ và phạm vi, đối tượng quản lý giống
nhau, gần nhau, liên thông với nhau và phương thức quản lý tương tự nhau vào
một bộ để tinh gọn hợp lý bộ máy và khắc phục đáng kể sự chồng chéo, giao thoa
hoặc chưa rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi và đối tượng quản lý giữa các
bộ, ngành với nhau; đặc biệt là sắp xếp, điều chỉnh mạnh một số cơ quan ngang
bộ theo yêu cầu giảm bớt loại hình cơ quan là ủy ban; trong đó: giải thể ủy ban
Dân số, Gia đình và Trẻ em; hợp nhất ủy ban Thể dục Thể thao vào Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch; theo đó tổ chức lại ủy ban Thể dục thể thao thành Tổng cục
Thể dục thể thao.
Đã chuyển các cơ quan thuộc Chính phủ
có chức năng quản lý nhà nước vào các bộ quản lý; không còn cơ quan thuộc Chính
phủ có chức năng quản lý nhà nước. Sự cải cách này đánh dấu một mốc quan trọng
là kết thúc loại hình cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước tồn
tại trong nhiều khóa Chính phủ; đã thu gọn đáng kể số lượng các cơ quan thuộc
Chính phủ đến mức cần thiết để chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới - tự chủ,
tự chịu trách nhiệm phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Sau 10 năm cải cách tổ chức bộ máy hành chính, cơ cấu
tổ chức Chính phủ khóa sau tinh gọn, hợp lý hơn; số lượng các bộ, cơ quan ngang
bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từ 48 cơ quan (năm 2001) đến năm 2010 còn 30 cơ
quan (giảm được 18 cơ quan). Trong quá trình kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy
Chính phủ luôn tuân theo định hướng phải xác định đúng, và rõ số lượng các bộ,
cơ quan ngang bộ trong cơ cấu tổ chức Chính phủ để từng bước đi đến ổn định cần
thiết và hợp lý.
Kết quả cải cách tổ chức bộ máy đáng ghi nhận là:
Đã hình thành được các bộ quản lý đa
ngành, đa lĩnh vực giúp cho bộ máy tổ chức Chính phủ được tinh gọn, khắc phục
đáng kể tình trạng bỏ trống hoặc chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ
quan nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; đảm bảo tính thống
nhất, thông suốt và liên thông giữa các ngành, lĩnh vực khi nằm trong cùng một
bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực.
Chuyển đáng kể các cơ quan ngang bộ theo
hướng thu gọn dần số lượng để chuyển thành bộ; cần thiết điều chuyển chức năng,
nhiệm vụ để sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể tổ chức. Đặc biệt, thực hiện được
mục tiêu, yêu cầu cải cách hành chính đó là không còn loại hình cơ quan thuộc
Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực, thu gọn số lượng
các cơ quan thuộc Chính phủ đến mức cần thiết, khẳng định các cơ quan thuộc
Chính phủ là đơn vị sự nghiệp chuyển sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu
trách nhiệm.
Về cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương
Cơ cấu bộ máy hành chính
đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng thu gọn các cơ quan cụ thể như sau
Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tương ứng với cơ cấu Chính phủ khóa XI
+. Ở cấp tỉnh:
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ
chức thống nhất: 19 cơ quan
Cơ quan chuyên môn
cấp tỉnh được tổ chức theo đặc thù riêng của một số địa phương: 07 cơ quan
+.Ở cấp huyện:
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ chức thống nhất: 12 cơ
quan
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ
chức theo đặc thù riêng của một số địa phương: 03 phòng (Phòng Dân tộc; Phòng
Tôn giáo; ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em).
Tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tương ứng với cơ cấu Chính phủ khóa XII
+. Ở cấp tỉnh:
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ
chức thống nhất: 17 cơ quan
Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh được tổ
chức theo đặc thù riêng của một số địa phương để có thêm 03 cơ quan sau: Sở
Ngoại vụ; Ban Dân tộc; Sở Quy hoạch - Kiến trúc (đối với thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh).
+.Ở cấp huyện:
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ
chức thống nhất: 10 cơ quan
Cơ quan chuyên môn được tổ chức để
phù hợp với từng loại đơn vị hành chính cấp huyện: 02 cơ quan
Cơ quan chuyên môn cấp huyện được tổ
chức theo đặc thù riêng của một số địa phương: 01 cơ quan (Phòng Dân tộc)
Cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp xã
từ 3 đến 5 thành viên
-Đổi mới chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước khác
. - Cải biến một bước thể chế hành chính và
thủ tục hành chính
Về xây dựng thể chế: Chính phủ đã tập trung chỉ đạo xây dựng, ban hành theo
thẩm quyền hoặc trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện thể chế về kinh tế, tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước, hội nhập khu vực, quốc tế và quản lý nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật. Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các địa phương cũng đã ban hành
và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền để cụ thể
hóa các văn bản của Trung ương cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa
phương
Về thủ tục hành chính từ khi Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 38/CP ngày 04-5-1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong
việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, mở đầu cho hoạt động thực
hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, đã tạo bước đột phá lớm trong hoạt động
nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước đối với mọi lĩnh vực, là sự
chuyển biến rõ rệt trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế Nhà nước. Tiếp đó,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành một loạt các quy định về cải cách thủ tục hành
chính, tạo hành lang pháp lý cơ bản cho việc triển khai thực hiện cải cách thủ
tục hành chính theo hướng đổi mới, đáp ứng được nhu cầu của xã hội như Quyết
định số 136/2001/QĐ-TTg với Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước
giai đoạn 2001-2010; Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế
thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan nhà nước ở địa phương và gần đây nhất là
Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về Ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa”, cơ
chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước tại địa phương thì thủ
tục hành chính bước đầu chuyển mình theo hướng phục vụ nhân dân giảm bớt sự phiền
hà, sách nhiễu, chi phí đi lại đối với nhân dân, các công việc của nhân dân đã
được thực hiện nhanh chóng thuận tiện hơn rất nhiều
2.2. Hạn chế của nền hành chính hiện nay
Công cuộc CCHC nhà nước
mặc dù đã đạt được những kết quả tiến bộ, quan trọng, đáng ghi nhận nhưng vẫn
đang còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng đòi hỏi của nhịp điệu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ mới, những hạn chế lớn tập
trung chủ yếu ở những điểm sau:
Cho đến nay vẫn chưa tạo lập được một hệ thống
thể chế đầy đủ, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN và dân chủ hóa đời sống xã hội trong điều kiện mở cửa hội nhập
quốc tế và tiến bộ khoa học công nghệ của thế giới hiện đại. Hiện vẫn chưa xác
định được một cách đầy đủ, rõ ràng về khung khổ thể chế cần phải có cho quản lý
các hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước trong điều kiện mới. Những bổ sung,
sửa đổi về mặt thể chế mặc dù rất tích cực nhưng chất lượng còn nhiều hạn chế;
mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ và vẫn còn bị ảnh hưởng bởi thể chế cũ - thể
chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp.
Thủ tục hành chính tuy đã
có những tiến bộ nhất định nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà,
gây không ít phiền toái cho doanh nghiệp và người dân; chủ yếu vẫn theo cơ chế
“xin - cho”. Cơ chế “một cửa”, “ một cửa liên thông” tuy được triển khai rất
rộng rãi nhưng còn mang tính hình thức, chưa có chuyển biến thực sự về chất
trong quan hệ giữa Nhà nước với công dân.
Việc điều chỉnh, đổi mới chức năng, nhiệm vụ
của cả bộ máy hành chính Nhà nước cũng như của từng cấp, từng cơ quan hành
chính còn rất chậm, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, chưa phù hợp với thông lệ chung của thế giới trong bối cảnh
toàn cầu hóa. Hiện nay bộ máy hành chính Nhà nước, từ Chính phủ đến chính quyền
địa phương còn ôm đồm quá nhiều việc thuộc lĩnh vực quản lý sản xuất, kinh
doanh và hoạt động sự nghiệp dịch vụ, chưa tập trung vào thực hiện chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước. Hiện vẫn chưa có sự phân biệt rõ vai trò, chức năng
của ba khu vực: Nhà nước - Thị trường - Xã hội dân sự, kể cả trong lĩnh vực thể
chế cũng như trong thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước.
Cơ cấu bộ máy hành chính nhà nước vẫn đang còn
rất cồng kềnh, đồ sộ, nhiều tầng cấp trung gian.
Hoa Kỳ một quốc gia có
diện tích khoảng 9.3 triệu km2 nhưng họ chỉ có 50 bang hoặc một quốc
gia láng giềng của chúng ta là Trung Quốc cũng có diện tích khoảng 9.6 triệu km2 họ có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh và khoảng
2800 đơn vị cấp huyện trong khi đó Việt Nam có diện tích 331.210km2
nhưng có tới 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương và có số huyện là 703 cùng
với đó là 11480 xã và con số này đang có xu hướng hình to ra ví dụ mới đây
huyện Từ Liêm thành hố Hà Nội đã được tách thành hai quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ
Liêm hoặc là ở Tuyên Quang đã thành lập thêm một huyện mới là Lâm Bình trên cơ
sở cắt một phần hai huyện Chiêm Hóa và Na Hang ..
Số lượng, chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, phát
triển đất nước. Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức
có vi phạm pháp luật tiến hành chưa nghiêm minh, chưa thường xuyên, thiếu
khách quan, công bằng dẫn đến kém
hiệu quả, ít tính giáo dục, răn đe, làm gương…Do vậy đạo đức công vụ, trách
nhiệm của công chức chậm được nâng cao. Một bộ phận cán bộ, công chức sa xút về
phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu của dân,
của xã hội.
Một ví dụ minh chứng cho
việc này là hiện nay nước ta với dân số gần 90 triệu người nhưng số cán bộ công
chức lên đến 2,8 triệu người tính ra cứ khoảng hơn 30 người dân lại có một
người , con số này cao hơn rất nhiều so với Hoa Kỳ một quốc gia có tới 316
triệu người gấp khoảng 3,3 lần dân số Việt Nam nhưng con số lãnh đạo chỉ bằng
1/3 so với nước ta.
Hiện nay, số lượng các thứ trưởng thuộc
các bộ quá nhiều so với quy định của Chính phủ: theo Nghị định số
178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, mỗi bộ, cơ quan
ngang bộ không quá 04 thứ trưởng và tương đương nhưng trong thực tế có những bộ
như:
- Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn: trước đây có 10 thứ trưởng, nay còn 09 thứ trưởng.
- Bộ Công Thương: trước
đây có 10 thứ trưởng, nay còn 09 thứ trưởng.
Ở cấp địa phương
Tại nghị định Số:
107/2004/NĐ-CP quy định về số lượng cấp phó chủ tịch trong UBND các cấp quy
định số lượng cấp phó trong UBND tỉnh là 4 người ( các tỉnh có dân số từ 2.000.000 người
trở lên hoặc có diện tích từ 10.000 km2 trở lên và thành phố trực thuộc Trung
ương là đô thị loại I ) riêng 2 thành
hố Hà Nội và Thành hố Hồ Chí Minh số lượng này là 5 phó chủ tịch sau đó số
lượng phó chủ tịch của UBND Thành phố Hà Nội được điều chỉnh lại Giữa năm 2011,
Nghị định 36/2011/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
107/2004/NĐ-CP, theo đó UBND thành phố Hà Nội có thể có tối đa 6 phó chủ tịch. Số lượng phó chủ
tịch UBND huyện cũng dao động từ 2 đến 4 người , còn cấp xã là từ 1 đến 3 người
tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị , xã hội mỗi địa phương
Việc
phân cấp Trung ương - địa phương vẫn rất chậm chạp. Cho đến nay, các Bộ ngành
vẫn đang nắm giữ nhiều việc cụ thể của chính quyền địa phương làm hạn chế tính
chủ động, sáng tạo của địa phương. Các Bộ vẫn được tổ chức theo mô hình Bộ đơn
ngành, đơn lĩnh vực, cơ cấu tổ chức bên trong của các Bộ, số lượng cơ quan
chuyên môn của UBND cấp tỉnh, cấp huyện lại đang có xu hướng tăng thêm đầu mối.
Bộ máy cồng kềnh, nhiều đầu mối như hiện nay tất yếu dẫn đến tình trạng chồng
chéo, trùng lắp về chức năng, thẩm quyền và sức ỳ, sự trì trệ, quan liêu của bộ
máy là không thể tránh khỏi.
Phương thức quản lý điều
hành của bộ máy hành chính các cấp vẫn theo chế độ làm việc tập thể, quyết định
theo đa số có nhiều hạn chế nhưng chậm được thay đổi. Hoạt động quản lý điều
hành hành chính, cũng như các dạng quản lý điều hành khác, đòi hỏi phải theo
chế độ thủ trưởng, phải đề cao vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu thì
mới đảm bảo nhanh nhạy, hiệu lực, hiệu quả.
Về thực hiện yêu cầu hiện
đại hóa nền hành chính còn chậm, chưa có sự thay đổi cơ bản trong phương thức
lề lối làm việc của cơ quan hành chính và phong cách thực thi công vụ của cán
bộ, công chức mà vẫn mang nặng dấu ấn của cơ chế cũ. Khả năng sử dụng công nghệ
thông tin trong quản lý hành chính còn nhiều hạn chế làm cho năng suất lao
động, hiệu quả công tác của công chức thấp, trình độ ngoại ngữ và tin học của
đội ngũ cán bộ, công chức còn yếu kém, nhất là trước yêu cầu hội nhập quốc tế
hiện nay.”(3)
2.3 Một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước
Chức năng của cơ
quan hành chính nhà nước là quản lí hành chính nhà nước, là hoạt động chịu sự
chi phối, tác động của rất nhiều yếu tố.Chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
nên khi một nhân tố thay đổi sẽ kéo theo các nhân tố khác thay đổi theo.Đó là
các yếu tố như cơ cáu,tổ chức ,chức năng của bộ máy hành chính nhà nước, đội
ngũ cán bộ,công chức,công vụ…Chỉ cần làm rõ sự tác động,ảnh hưởng của các nhân
tố ta sẽ tìm ra nguyên nhân và phương hướng,giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước. Các yếu tố đó được biểu hiện như sau:
Trước hết là thể
chế pháp luật, đó là hành lang pháp lí để cơ quan, cán bộ, công chức thực hiện
nhiệm vụ được giao,việc cụ thể hoá , xác định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn giúp
họ thực hiện hiệu quả chức năng của mình. Đối với cơ cấu, khi nói đến cơ cấu cơ
bản của một cơ quan , người ta phải xét đến những vấn đề chủ yếu như sự phân
công trong nội bộ tổ chức, việc sắp xếp các nhiệm vụ công tác cho các chức danh
khác nhau,làm thế nào để thực hiện sự điều hoà, phối hợp cần thiết nhằm đảm bảo
thực hiện được mục tiêu tổng thể của cơ quan hành chính đó nói riêng và bộmáy
nói chung. Các cấp đọ của cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính cũng giống như
các cơ quan khác đó là phải có 3 cấp đọ như sau:
Cấp độ cơ cấu vĩ
mô: là cách sắp xếp, tổ chức vị trí, vai trò của từng cán
bộ,công,nhân,viên chức trong cơ quan.
Cấp độ vi mô:
là
cách quy định quyền hạn, trách nhệm của từng vị trí mà cán bộ công, nhân, viên
chức trong cơ quan nắm giữ.
Hệ thống bổ trợ:
bao
gồm hệ thống điều hành của cơ quan,quá trình quản lí sự phát triển của cơ quan,
hệ thống văn hoá công ty và hệ thống quản lí hoạt động cơ quan hành chính đó.
Cơ quan sẽ không
thực hiện có hiệu quả các chức năng của mình nếu 3 cơ cấu này không được thiết
lập một cách đúng mức đẻ bổ trợ cho hoạt động của mình.Cơ cấu tổ chức hợp lí sẽ
tránh được sự chồng chéo,rườm rà,dễ dàng phối hợp điều chỉnh công việc trong
khi thực hiện nhiệm vụ,tiết kiệm được thời gian còn ngược lại nếu cơ cấu bất
hợp lí sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động.Bộ máy hành chính được xem là một hệ
thống và mỗi cơ quan hành chính là một bộ phận, cả hệ thống chỉ hoạt động tốt khi mỗi bộ phận vừa thực
hiện tốt nhiệm vụ của mình vừa phối hợp tốt với các bộ phận khác để hoàn thành
được mục tiêu chung.
Một yếu tố quan
trọng nữa là năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức là một trong
những điều kiện tiên quyết bảo đảm cho quá trình diễn ra đạt kết quả tốt.Đội
ngũ cán bộ, công chức là nguồn lực chủ yếu của hệ thống quản lí hành chính có
thể vận hành và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Do tình hình kinh tế, xã hội
thường xuyên thay đổi đòi hỏi phải liên tục phát triển năng lực, giáo dục về
phẩm chất cho tất cả cán bộ, công chức trong hệ thống quản lí hành chính,vì đó
là cũng một nhân tố quyết định dến hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nước.
Ngoài ra sự tín
nhiệm,ủng hộ của nhân dân đối với bộ máy hành chính nhà nước cũng là một nhân
tố ảnh hưởng đến hoạt động của bộ mấy hành chính nhà nước. Sự tín nhiệm ủng hộ
càng lớn thì hoạt động quản lí của bộ
máy hành chính nhà nước càng dễ dàng đạt được mục tiêu.Đặc điểm tổ chức và
nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị cũng ảnh hưởng đến hiệu lực quản lí
của bộ máy hành chính nhà nước. Hiệu lực quản lí của bộ máy hành chính nhà nước
phụ thuộc vào nội dung,phương thức lãnh đạo của Đảng , sự phân công rành mạch
giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và giữa các cơ quan nhà nước với
nhau.
Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
3.1
Quan điểm cải cách hành chính
Cải
cách bộ máy hành chính nhà nước phải được thực hiện trên cơ sở các quan điểm
sau;
- Cải cách hành chính nhà nước trên cơ sở
đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công phân nhiệm một cách
hợp lí giữa ba quyền lập pháp, hành pháp, và tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý
là quyền hành pháp
- Cải cách BMHC nhà nước trên cơ sở xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,vì dân
- Cải cách BMHCNN trong xu thế hội nhập quốc
tế góp phần thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2 Nguyên tắc cải cách bộ máy hành chính
nhà nước
Cải
cách BMHCNN phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc sau
-Thể
chế hóa kịp thời đường lối, chủ chương, chính sách của Đảng về cải cách BMHCNN
thành các quy phạm pháp luật trong từng giai đoạn cụ thể.
-Luôn
xuất phát từ quyền lợi của dân, đáp ứng quyền lợi, nguyện vọng của nhân dân.
Đảm bảo nguyên tắc: “quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
-Tuân
thủ nguyên tắc tập chung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của BMHCNN.
-Phân
biệt rõ hơn chức năng quản lí nhà nước về kinh tế và quản lí sản xuất kinh
doanh.
-Đảm
bảo quản lí hành chính nhà nước theo ngành , lĩnh vực với quản lí lãnh thổ.
-Xác
định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan trong BMHCNN ở
trung ương và ở địa phương.
3.3. Phương hướng cải cách bộ máy
hành chính nhà nước
"Thứ nhất, cải cách hành chính phải được tiến
hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị; phải đáp ứng yêu cầu
hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; tiếp tục làm rõ và đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ
quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng và phù hợp; xây dựng một
đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp và hướng tới xây dựng một nền hành
chính hiện đại. Đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính phục vụ trong
sạch, tinh gọn, minh bạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại hóa, hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước, cụ thể về sửa đổi, bổ sung các văn bản luật quan trọng về tổ chức bộ máy,
rà soát, ban hành các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các
bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân các cấp và ban hành các thể chế về công chức, công vụ, về tổ chức và
hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa
các thủ tục hành chính trên các lĩnh vực; thực hiện các quy định về kiểm soát
thủ tục hành chính; công khai hóa các thủ tục hành chính và nghiên cứu thực
hiện thống nhất cách tính chi phí cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết các
thủ tục hành chính.
Thứ ba, cải cách tổ chức bộ máy hành chính,
trong đó tập trung rà soát, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành
chính các cấp, mạnh dạn chuyển giao những nội dung cơ quan hành chính nhà nước
không nên làm hoặc làm không hiệu quả cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính
phủ đảm nhận; tiếp tục thực hiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; đẩy
mạnh phân cấp; đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ quan hành chính, các đơn vị
sự nghiệp dịch vụ công
Về cơ cấu tổ chức của Chính phủ :
Tiếp tục hình
thành bộ quản lí đa ngành, đa lĩnh vực; giảm phù hợp số đầu mối các bộ, cơ quan
ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ
giữa các bộ, ngành; không giữ các cơ quan thuộc Chính phủ có chức năng quản lí
nhà nước; chỉ duy trì một số cơ quan cần thiết thuộc Chính phủ là đơn vị sự
nghiệp.
Tập trung xây dựng
các bộ để làm tốt chức năng chủ yếu là xây dựng thể chế, luật pháp, cơ chế,
chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đối với các lĩnh vực
được phân công; tổ chức chỉ đạo thực hiện và đôn đốc, kiểm tra, thanh tra việc
chấp hành.
Thực hiện phân cấp
mạnh và phù hợp hơn về nhiệm vụ từ Chính phủ và các bộ cho chính quyền địa
phương, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính năng động, sáng tạo của chính
quyền địa phương trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của
mỗi cấp trong bộ máy chính quyền, đồng thời xây dựng hành lang pháp lí bảo đảm
sự thống nhất quản lí của nhà nước Trung ương.
Cơ cấu bên trong
của các bộ phải được sắp xếp hợp lí, bỏ cấp trung gian, giảm tầng nấc, thủ tục,
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, tránh chồng chéo, nâng cao trách nhiệm của
từng bộ phận và đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực hiện công việc.
Đối với một số
nhiệm vụ thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có đủ điều kiện dân sự hóa thì chuyển
cho các bộ không thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh quản lí nhằm tập trung hơn
nhiệm vụ xây dựng quân đội, công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại. Việc thực hiện chủ trương này phải bảo đảm thận trọng, chặt chẽ và
hiệu quả.
Về chính quyền địa phương :
Khẩn trương xây
dựng và đưa vào thực hiện quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp, trên cơ
sở đó ổn định cơ bản các đơn vị hành chính ở cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Kiện
toàn thống nhất hệ thống cơ quan chuyên môn của các cấp chính quyền.
Xác định địa vị
hành chính của UBND theo hướng tăng quyền tự quản đối với các hoạt động quản lí
dân cư ở địa hương, chủ yếu tậ chung vào các vấn đề như xây dựng kế hoạch tổng
thể về hát triển kinh tế, xã hội ở địa phương, quản lí
hoạt động kinh tế chủ yếu là hoạt động đất đai, quản lí dân cư, quản lí trật tự
trị an và cung cấ các dịch vụ công cho địa bàn dân cư địa phương.
Tính thống nhất và
thông xuốt của hệ thống hành chính nhà nước được bảo đảm trên cơ sở xác định rõ
vị trí, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Chính quyền địa phương được xây dựng, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc nhà
nước đơn nhất, quyền lực của Nhà nước là thống nhất. Theo đó, cần điều chỉnh,
bổ sung các quy định để thực hiện nhất quán chủ trương này, đồng thời có cơ chế
bảo đảm nguyên tắc xây dựng chính quyền của dân, do dân và vì dân, tăng cường
công tác giám sát của cấp uỷ, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đối với hoạt
động của chính quyền địa phương.
- Giảm cấp phó trong bộ máy.
Để khắc phục tình trạng quá nhiều cấp phó
trong cơ quan hành chính, trước hết cần tập trung đổi mới phương thức, lề lối
làm việc của các cơ quan; giảm hội họp, phân định rõ trách nhiệm của tập thể và
người đứng đầu cơ quan. Từ đó, giảm hợp lí cấp phó trong các cơ quan hành chính
nhà nước.
Thứ tư :Đổi mới công tác tuyển
dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
+.Tuyển dụng Cán bộ, công chức cấp xã cần đáp ứng những tiêu chuẩn như
Có tinh thần yêu nước sâu sắc,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có năng lực tổ chức vận
động nhân dân thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật
của Nhà nước.
Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, công tâm
thạo việc, tận tụy với dân. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng. Có ý thức kỷ luật trong công tác. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật
thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, nắm vững quan điểm, chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ
văn hóa và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc
làm, có đủ năng lực và sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Am hiểu và tôn trọng phong tục, tập quán của cộng đồng dân cư trên địa
bàn công tác
Đổi mới phương thức và nội dung các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức sát với thực tế, hướng vào các vấn
đề thiết thực đặt ra từ quá trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành
chính. Thông qua đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính
bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của cơ quan hành chính, nhất là trong
giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh nghiệp. Thực hiện cơ chế đào tạo
tiền công vụ và đào tạo, bồi dưỡng trong công vụ theo định kỳ bắt buộc hàng
năm; thực hiện chế độ đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm.
Coi trọng công tác giáo dục đạo đức và
phẩm chất chính trị cho đội ngũ cán bộ, công chức để nâng cao lòng yêu nước,
yêu chế độ, niềm tự hào dân tộc và tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân
dân của đội ngũ cán bộ, công chức.
2. Chế độ đào tạo cán bộ công chức,
viên chức
tục
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức bằng các hình thức phù
hợp, có hiệu quả. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Tiếp
tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức danh, tiêu chuẩn
của từng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan,
tổ chức, từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, làm cơ sở cho tinh giản tổ
chức và tinh giản biên chế. Tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm
của hoạt động công vụ. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ,
công chức, viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn
những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân
dân.
3. Nâng cao năng lực, trình độ đội ngũ cán
bộ, công chức làm công tác cải cách hành chính ở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp. Đồng thời, có chế độ,
chính sách hợp lý đối với đội ngũ cán bộ
4. Công tác đánh
giá công chức viên chức
Đánh giá công chức
phải gắn vào công việc cụ thể, hoàn cảnh cụ thể và gắn với cơ chế chính sách,
phân tích cụ thể điều kiện hoàn cảnh mà công chức hoạt động. Xây dựng các tiêu
chí đánh giá, thang đánh giá cho từng chức danh, từng cương vị càng cụ thể càng
tốt; nghiên cứu thực hiện chế độ “khách hàng” đánh giá công chức. Đánh giá công
chức phải thực hiện thường xuyên và lưu trữ kết quả đầy đủ, làm tài liệu căn cứ
để theo dõi quá trình diễn biến sự phát triển.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
của cơ quan hành chính, đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của cơ quan hành chính một cách hiệu quả, cung cấp các dịch vụ hành
chính công trực tuyến để tạo thuận lợi cho tổ chức và cá nhân trong các giao
dịch với cơ quan hànhchính theo đúng tinh thần của quyết định Số: 1605/QĐ-TTg về chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong
hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 2015, Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành
chính, của cán bộ, công chức, đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính.
Thứ sáu về vấn đề cải cách nền tài chính công
1. Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục hoàn thiện chính sách và hệ
thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân
đối ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển;
dành nguồn lực cho con người, nhất là cải cách chính sách tiền lương và an sinh
xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
2. Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với
doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và các tổng công ty; quản
lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và
nợ công trong giới hạn an toàn;
3. Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế
xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học, công nghệ theo hướng lấy mục tiêu
và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp khoa
học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh
nghiệp khoa học, công nghệ, các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm;
xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng
nhân tài khoa học và công nghệ;
4. Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính
nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế, thay thế
bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào
kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan
hành chính nhà nước;
5. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch
hóa gia đình, thể dục, thể thao.
Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các
đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện chính sách điều chỉnh giá
dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ
sở giáo dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch.
Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các
cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu
vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế,
khám, chữa bệnh; có lộ trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
PHẦN KẾT LUẬN
Bằng cách sử dụng nhìêu phương pháp
nghiên cứu chúng tôi đã nêu lên được các khái niệm , các cơ sở lí luận về bộ máy
hành chính nhà nước cũng như chức năng nhiệm vụ của các cơ quan này đồng thời
khái quát được những hạn chế , khuyết điểm, yếu kém trong hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay. Từ việc khái quát
những tồn tại, khó khăn, yếu kém và nghiên cứu các tài liệu, các bài viết của các
chuyên gia chúng tôi cũng đã mạnh dạn đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trong thời gian tới
với hi vọng bộ máy hành chính nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ
ngày càng được hoàn thiện hơn , hoạt động năng động, hiệu quả hơn góp phần tích
cực thúc đẩy sự phát triển của đất nước đưa đất nước tiến lên trên con đường
phát triển và hội nhập, phù hợp với xu thế chung của toàn nhân loại
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam_trường
Đại học luật Hà Nội _NXB công an nhân dân 2012
2. Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam_
trừơng đại học luật Hà Nội _Nxb công an nhân dân 2013
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam 2013
4. Luật tổ chức hội đồng nhân dân ủy ban
nhân dân 2003
5. Luật tổ chức Chính phủ 2001
6. Nghị quyết số 17-NQ/TW ngày 01 tháng
8 năm 2007 của Ban chấp hành trung ương Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính
nâng cao hiệu lực ,hiệu quả quản lí của
bộ máy nhà nước
7. Nghị quyết 30c/ NQ-CP ngày 08 tháng
11 năm 2011 ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai
đoạn 2011-2020
8. Nghị
định Số: 107/2004/NĐ-CP ngày 01 tháng 4
năm 2004 quy định về số lượng cấp phó chủ tịch trong UBND các cấp
9. Nghị định 36/2011/NĐ-CP ngày 23 tháng
5 năm 2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2004/NĐ-CP quy
định về số phó chủ tịch UBND các cấp
10. Quyết
định Số: 1605/QĐ-TTg ngày 27 tháng 8
năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về
chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ
quan nhà nước giai đoạn 2011 2015,
11. Website
tapchicongsan.org.vn
12. Website
dangcongsan.vn
13. Trang
thông tin điện tử Bộ nội vụ moha.gov.vn
14. Tiến
sĩ Vũ Văn Thái vụ trưởng vụ tổ chức biên chế,bộ nội vụ- đánh giá 10 năm cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010 và phương
hướng cải cách giai đoạn 2011- 2020
15. Tiến
sĩ Nguyễn Tiến Dĩnh thứ trưởng Bộ nội vụ trả lời phóng viên của Tạp chí Cộng
sản tại Hội nghị trực tuyến tổng kết
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010
16. Nguyễn Trường Sơn _Phương hướng cải cách hành chính nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội tại Việt Nam trong giai đoạn mới
Tác giả
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
+ Chính phủ
+ Các bộ, cơ quan ngang bộ
Bộ Công an,
Bộ Công thương,
Bộ Giáo dục và Đào tạo,
Bộ Giao thông vận tải,
Bộ Kế hoạch và đầu tư,
Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Bộ Ngoại giao,
Bộ Nội vụ,
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Bộ Quốc phòng,
Bộ Tài chính,
Bộ Tài nguyên và Môi trường,
Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Tư pháp,
Bộ Văn hóa - Thể thao và du lịch,
Bộ Xây dựng,
Bộ Y tế.
Và 4 cơ quan ngang bộ bao gồm:
Ngân hàng Nhà nước,
Thanh tra Chính phủ,
Ủy ban dân tộc,
Văn phòng Chính phủ.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện , ủy ban nhân dân cấp xã: hiện nay nước ta có 63 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương(gọi chung là cấp tỉnh) tương đương với 63 UBND cấp tỉnh:
+ Có 703 huyện, quận, thị xã , thành phố trực thuộc tỉnh( gọi chung là cấp tỉnh) tương đương với 703 UBND huyện
+ Có 11480 xã, hường , thị trấn (gọi chung là cấ xã) tương đương với 11480 UBND xã
Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Ở cấp địa phương
Tại nghị định Số: 107/2004/NĐ-CP quy định về số lượng cấp phó chủ tịch trong UBND các cấp quy định số lượng cấp phó trong UBND tỉnh là 4 người ( các tỉnh có dân số từ 2.000.000 người trở lên hoặc có diện tích từ 10.000 km2 trở lên và thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị loại I ) riêng 2 thành hố Hà Nội và Thành hố Hồ Chí Minh số lượng này là 5 phó chủ tịch sau đó số lượng phó chủ tịch của UBND Thành phố Hà Nội được điều chỉnh lại Giữa năm 2011, Nghị định 36/2011/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 107/2004/NĐ-CP, theo đó UBND thành phố Hà Nội có thể có tối đa 6 phó chủ tịch. Số lượng phó chủ tịch UBND huyện cũng dao động từ 2 đến 4 người , còn cấp xã là từ 1 đến 3 người tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị , xã hội mỗi địa phương
Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam_trường Đại học luật Hà Nội _NXB công an nhân dân 2012
2. Giáo trình luật hiến pháp Việt Nam_ trừơng đại học luật Hà Nội _Nxb công an nhân dân 2013
3. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013
No comments:
Post a Comment